QUÂN VÀ DÂN ĐIỆN BIÊN
BÁM TRỤ KIÊN CƯỜNG
GÓP PHẦN LÀM NÊN
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã lùi xa hơn nửa thế kỷ, song âm hưởng và những “giá trị lịch sử và hiện thực” của chiến thắng vẫn còn đọng mãi và có sức lan tỏa mạnh mẽ qua nhiều thế hệ, làm tăng thêm niềm tự hào dân tộc, niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân một lòng, một dạ chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân.
Ngược dòng lịch sử, bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, để cứu nguy cho những thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương và để tìm lối thoát trong danh dự, Chính phủ Pháp đã thông qua “Kế hoạch Nava” với hy vọng sẽ giành được một số thắng lợi quan trọng trên chiến trường để tiến tới đàm phán với những nội dung có lợi cho Pháp. Triển khai kế hoạch này, thực dân Pháp đã cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, một “ngã tư chiến lược quan trọng”, không những có thể uy hiếp hậu phương của Việt Minh mà còn khống chế cả Bắc Lào, Vân Nam (Trung Quốc) và cả khu vực Đông Nam châu Á. Mặt khác, Điện Biên Phủ có cánh đồng Mường Thanh rộng lớn, xung quanh có đồi núi bao bọc, thuận lợi cho việc xây dựng một căn cứ quân sự, một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Để biến Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến của Kế hoạch Nava, “một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta với tham vọng “sẵn sàng nghiền nát chủ lực Việt Minh”, thực dân Pháp đã huy động 16.200 quân, gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới để xây dựng và thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Sau khi nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ, cùng với việc khẩn trương xúc tiến xây dựng các cụm cứ điểm, thực dân Pháp đã thi hành ngay các chính sách lừa bịp, lôi kéo nhân dân, tuyên truyền sức mạnh quân sự của Pháp, Mỹ. Ngoài ra, chúng còn tăng cường tuyển mộ tay sai, bắt hơn 500 thanh niên đi lính. Hàng ngày, máy bay địch ném bom vào các khu vực mà chúng nghi có bộ đội ta đóng quân, chúng rải truyền đơn kêu gọi nhân dân và bộ đội đầu hàng. Chúng tiến hành bắn phá, cướp bóc, giết hại nhân dân, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng bản, dỡ nhà dân để làm hầm hào, công sự, cấm dân ra đồng thu hoạch mùa màng và dồn dân vào 3 khu vực Ta Pô, Co Mỵ, Noong Nhai để dễ kiểm soát. Những hành động dã man của thực dân Pháp đã gây ra cho đồng bào ta nhiều tổn thất về người và của (328 người chết, 283 người bị thương, 158 phụ nữ bị hãm hiếp, 1.255 nóc nhà bị đốt phá...). Những thiệt hại về người và của nói trên đã làm cho đời sống của đồng bào các dân tộc Điện Biên gặp nhiều khó khăn, vô cùng cực khổ (có đến 60% dân bị đói, phải ăn sắn non, củ nâu, củ mài, nhiều vùng phải ăn cháo bẹ, rau măng...).
Một khí thế thi đua, yêu nước hào hùng được phát động khắp các địa phương với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Trước tình hình đó, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp và nhận định, Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng chỗ yếu cơ bản của địch là bị cô lập. Về phía ta, Điện Biên Phủ là một trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay; diễn ra trên địa bàn rừng núi hiểm trở, đường cơ động cho pháo khó khăn, thời gian chuẩn bị chiến dịch gấp, nhưng có ý nghĩa quân sự, chính trị và ngoại giao rất quan trọng. Khó khăn lớn nhất của ta là vấn đề bảo đảm hậu cần, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể khắc phục được. Trên cơ sở đánh giá tình hình, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, động viên quân và dân cả nước quyết tâm giành thắng lợi. Theo đó, công tác chuẩn bị được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ chỉ đạo thực hiện khẩn trương. Một khí thế thi đua, yêu nước hào hùng được phát động khắp các địa phương với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Hàng ngàn dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hiểm nguy, hướng về Điện Biên Phủ bảo đảm hậu cần phục vụ chiến đấu.

Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: TTXVN)
Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: TTXVN)

Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. (Ảnh: TTXVN)
Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. (Ảnh: TTXVN)
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, được sự tin tưởng giao nhiệm vụ tham gia chuẩn bị chiến trường, Đảng bộ và Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh đã lãnh đạo quân và dân các dân tộc Điện Biên (nay là hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu), chủ động chuẩn bị chiến trường với tất cả sức lực và trí tuệ, cùng cả dân tộc quyết tâm giành thắng lợi cuối cùng. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Điện Biên đã nô nức lên đường, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chẳng quản núi cao, vực thẳm, khe sâu và bom đạn kẻ thù, ra sức thi đua dốc sức, dốc lòng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Quân và dân tỉnh Điện Biên đã sát cánh cùng đồng bào cả nước chiến đấu anh dũng, quên mình, nêu tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết, ý chí kiên cường, sáng tạo, quyết tâm giành chiến thắng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Khu ủy Tây Bắc, để tạo điều kiện cho đại quân ta tập trung đánh địch ở Điện Biên Phủ, Ban Cán sự Đảng tỉnh xác định trước hết phải tập trung cho công tác tiễu phỉ. Đây là nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Điện Biên trong thời gian trước mắt. Được Bộ Quốc phòng và Quân khu Tây Bắc tăng cường lực lượng, bộ đội địa phương và dân quân du kích Điện Biên đã mở các cuộc tiến công vào các cụm phỉ tập trung lớn, với phương châm “Chính trị, quân sự đi đôi, lấy chính trị làm chủ yếu, quân sự làm áp lực quan trọng”; triển khai kế hoạch tiễu phỉ, trừ gian, tiêu diệt các tổ chức phản động, không để địch cài cắm móc nối, ổn định tình hình nhân dân, xây dựng các cơ sở cách mạng và hậu phương vững mạnh; tích cực xây dựng các đơn vị bộ đội địa phương, củng cố và phát triển lực lượng dân quân, du kích làm nòng cốt để tuyên truyền vận động nhân dân nhận thức rõ âm mưu của kẻ địch, hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng, xây dựng các bản, khu dân cư kiên trung một lòng theo cách mạng, ủng hộ và tham gia kháng chiến; các xã đều có Ban chỉ huy xã đội, các bản đều có các tổ đội dân quân, du kích sẵn sàng chiến đấu. Tiêu biểu trong phong trào này như lực lượng du kích Hồ Thầu đã tiêu diệt, bắn bị thương và bắt sống 19 tên phỉ. Du kích Tà Lèng giữ vững vùng Sin Suối Hồ và đánh bại nhiều cuộc tiến công của hàng trăm tên phỉ vào Tả Lùng Thàn. Du kích Chung Chải tiêu diệt, bắn bị thương và bắt sống 33 tên phỉ, bảo vệ an toàn vùng căn cứ cách mạng. Riêng từ ngày 23/10 - 10/11/1953 lực lượng vũ trang tỉnh đã phối hợp cùng với bộ đội chủ lực, tiêu diệt, gọi hàng và bắt sống 2.300 tên phỉ, thu 39 trung liên, 859 súng trường. Thông qua chiến dịch tiễu phỉ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Điện Biên phối hợp với bộ đội chủ lực đã làm tan rã hầu hết các cụm phỉ, diệt ác, trừ gian, dập tắt hàng chục vụ gây bạo loạn; răn đe, giáo dục các đối tượng cầm đầu, làm tan rã 13 tổ chức phản động, tiêu diệt bắt sống, chiêu hàng 4.696 tên phỉ, thu giữ hàng nghìn khẩu súng các loại, nhiều đồ dùng quân trang, quân dụng khác; tuyên truyền giác ngộ quần chúng nhân dân thuyết phục vận động, giải thoát được 1.600 người bị địch bắt ép theo phỉ trở về với cách mạng. Đập tan âm mưu “dùng người Việt cai trị người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của thực dân Pháp, phá tan ý đồ gây chia rẽ dân tộc của địch, củng cố và tăng cường sức mạnh của mặt trận dân tộc thống nhất; xóa bỏ tận gốc chế độ thổ ti, sai nha đã thống trị tại khu vực Tây Bắc hàng trăm năm; đem lại quyền lợi chính đáng cho nhân dân các dân tộc vùng cao, biên giới; góp phần củng cố và tăng cường tình đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc anh em, cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Điện Biên đã nô nức lên đường, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, chẳng quản núi cao, vực thẳm, khe sâu và bom đạn kẻ thù, ra sức thi đua dốc sức, dốc lòng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Nhằm ngăn chặn, tiêu diệt, làm giảm sút tinh thần chiến đấu của địch trên quy mô chiến dịch và làm thất bại kế hoạch sử dụng lực lượng tại thị xã Mường Lay, tạo thế tăng cường cho Điện Biên Phủ của địch, quân và dân Điện Biên đã tích cực tham gia Chiến dịch giải phóng thị xã Mường Lay. Đây là chiến dịch mở đầu cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Được tin bộ đội chủ lực tiến công giải phóng thị xã, đồng bào các nơi trong tỉnh, từ vùng thấp đến vùng cao, vui mừng phấn khởi. Bộ đội đi đến đâu cũng được nhân dân và dân quân du kích tiếp đón, dẫn đường, phối hợp chiến đấu. Đồng bào đã quyên góp được 13 tấn gạo, 80 con lợn, 29 con trâu, bò và trên một tấn rau xanh các loại tiếp tế cho bộ đội. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân ủng hộ cho nên chỉ hơn 10 ngày đêm chiến đấu, bằng nhiều hình thức tác chiến phù hợp (bao vây tiêu diệt, truy kích lực lượng địch giữa miền rừng núi hiểm trở), quân và dân ta đã tiêu diệt 24 đại đội địch, bắt sống 2.500 tên, thu 700 súng các loại, hơn 30 tấn đạn dược, 12 máy vô tuyến điện và nhiều quân trang, quân dụng khác, bước đầu đẩy Nava vào thế bị động, lúng túng. Thị xã Mường Lay và các huyện phía bắc được hoàn toàn giải phóng, tuyến đường từ biên giới Việt-Trung đến Điện Biên Phủ được thông suốt. Chiến dịch giải phóng thị xã Mường Lay thắng lợi đã tạo nên một khí thế mới cho lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, cổ vũ tinh thần tình nguyện đóng góp ủng hộ kháng chiến, hăng hái tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa, tiến đến giải phóng hoàn toàn quê hương khỏi xiềng xích nô lệ và ách thống trị của thực dân, phong kiến.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên vừa là lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu vừa là lực lượng xây dựng củng cố hậu phương, cung cấp nhân tài, vật lực, hậu cần, kỹ thuật phục vụ chiến đấu, bảo đảm giao thông vận chuyển vũ khí trang bị cho chiến dịch.

Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: TTXVN)
Đoàn dân công xe thồ phục vụ tiền tuyến. (Ảnh: TTXVN)
Thi hành Chỉ thị chuẩn bị chiến trường của Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, để phát huy cao nhất hiệu quả của việc huy động sức người, sức của, phát huy được sức mạnh tại chỗ; tỉnh Điện Biên đã thành lập Ban chuẩn bị chiến trường của tỉnh và của các huyện. Nhiệm vụ của Ban chuẩn bị chiến trường là phối hợp tốt với các đơn vị bộ đội chủ lực tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách của Đảng, vận động nhân dân nâng cao ý thức cảnh giác, phòng gian bảo mật, xây dựng củng cố bảo vệ cơ sở cách mạng, ổn định tình hình an ninh trật tự, tạo hành lang an toàn bảo vệ nơi đóng quân của các cơ quan, đơn vị và các tuyến đường hành quân của bộ đội, vận động nhân dân bám trụ, vừa chiến đấu, vừa sản xuất, động viên nhân dân đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Để giải quyết những vấn đề cấp bách thực tế đặt ra, Ban Cán sự Đảng tỉnh chủ trương phân vùng và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng vùng. Đối với vùng ngoài (tức vùng giải phóng), nhiệm vụ chủ yếu là củng cố, bảo vệ cơ sở, chuẩn bị sức người, sức của, kho tàng, phương tiện, sẵn sàng huy động lương thực, thực phẩm cho chiến dịch. Đối với vùng địch tạm chiếm, phải làm tốt công tác dân vận, nắm tình hình địch, gây dựng lại cơ sở, chỉ đạo bộ đội địa phương, dân quân du kích tổ chức phục kích, chặn đánh những cuộc hành quân càn quét của địch, diệt tề trừ gian, chống càn, bảo đảm an toàn cho cơ sở cách mạng. Du kích các xã: Thanh Yên, Sam Mứn, Thanh Tiêng (nay là xã Thanh An và xã Thanh Xương) làm nhiệm vụ đưa đường cho cán bộ hoạt động; các xã xa địch làm nhiệm vụ canh giữ làng, bản. Trong những ngày cuối năm 1953 và đầu năm 1954, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức nhiều trận phục kích, tập kích chống càn của địch và gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề. Tiêu biểu là các trận đánh như:
Ngày 20/11/1953, lực lượng vũ trang của huyện Điện Biên phối hợp với Trung đoàn 148 chiến đấu liên tục hơn 6 tiếng đồng hồ và tiêu diệt được gần 200 tên địch ngay từ khi chúng bắt đầu đổ quân xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 30/12/1953, một tổ bộ đội địa phương được dân quân du kích giúp đỡ đã dũng cảm chặn đánh 2 đại đội lính Âu - Phi trên đường đi bản Mển (gần đồi Độc lập) để xem xét vị trí đóng đồn. Ta đã tiêu diệt nhiều tên; một tên quan năm và một tên quan ba bị thương nặng, số còn lại chạy tán loạn.

Ngày 10/1/1954, được tin bọn chỉ điểm báo tin có dấu vết hoạt động của bộ đội ta, địch đã tổ chức hai cuộc càn quét vào khu vực hai xã Sam Mứn và Thanh Tiêng để bất ngờ đánh úp ta. Chúng tổ chức lực lượng từ đồn Hồng Cúm vào bản Cang (xã Sam Mứn), một lực lượng khác lùng sục vào khu vực bản Bồ Hóng (xã Thanh Tiêng). Bộ đội và du kích của ta đã cảnh giác, phối hợp bố trí trận địa phục kích, nổ súng tiêu diệt tại chỗ 5 tên, bắt sống 20 tên, trong đó có 2 tên chỉ huy. Cũng trong thời gian này, lực lượng vũ trang tỉnh đã bắt được 16 tên do thám, gián điệp của Pháp từ khu vực Trung tâm ra hoạt động phá hoại vùng tự do.
Những hoạt động quân sự đánh địch giành thắng lợi bước đầu của lực lượng vũ trang Điện Biên đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cách mạng của nhân dân, đặc biệt là đồng bào còn nằm trong vùng kìm kẹp của địch, làm cho đồng bào thêm phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhất định thắng lợi, từ đó động viên mọi người tích cực đóng góp sức người, sức của và chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch sắp tới. Đây chính là những điều kiện thuận lợi, là niềm tin vào sự tất yếu của thắng lợi để quân và dân các dân tộc Điện Biên tham gia tích cực vào chiến dịch Điện Biên Phủ.

Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, cùng với việc làm nhiệm vụ đánh địch tại chỗ; Ban Cán sự Đảng tỉnh đã lãnh đạo và động viên nhân dân các dân tộc đóng góp sức người, sức của cao nhất cho chiến dịch. Nhân dân các dân tộc Điện Biên hiểu rất rõ giá trị từng tải lương thực, thực phẩm gửi ra mặt trận. Bởi vì, nếu từ Liên khu 4, Liên khu 3 hay từ Liên khu Việt Bắc, dân công đưa lương thực, thực phẩm lên đến Cò Nòi, họ phải vượt qua một chặng đường dài 500-700km với bao khó khăn nguy hiểm, thậm chí phải hy sinh cả xương máu. Nhưng tới nơi, số lượng mang đi chỉ còn một phần nhỏ thực sự tới tay bộ đội, còn phần nhiều phải nuôi người vận tải trên suốt dọc đường. Nhân dân Điện Biên cũng hiểu rất rõ những gian nan vất vả mà mình cố gắng khắc phục cho chiến thắng sẽ đỡ gấp nhiều lần nếu như nhân dân từ các vùng miền xuôi xa xôi phải đảm nhiệm. Tuy là nơi trực tiếp diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ cộng với những khó khăn của một tỉnh miền núi xa xôi hẻo lánh, nhưng nhân dân Điện Biên vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hậu phương tại chỗ của mình, phục vụ tốt nhất cho bộ đội đánh giặc. Ở khắp các địa phương, đồng bào các dân tộc không kể Thái, Mông, Hà Nhì, Mảng, Dao hay Khơ Mú... đều thi đua đoàn kết lập công. Đồng bào Mông ở Tủa Chùa, Điện Biên, Tuần Giáo,... tuy chỉ có ngô, có sắn cũng đem đi đóng góp. Đồng bào Thái, Hà Nhì ở Mường Tè, Mường Lay còn dùng cả trâu để thồ rau, thồ gạo, thồ thịt đến tận nơi trú quân rồi giao tất cả cho “Bộ đội Cụ Hồ”. Có người, đầu đội rau quả, lưng gùi gạo, tay xách gà, dắt lợn, trèo đèo, lội suối, vượt qua những chặng đường dài để trao tận tay cho các bếp nuôi quân. Lại có những nơi, phần do không làm kịp, phần do địch đánh phá, đồng bào cả vùng đều thỏa thuận giao tất cả nương, rẫy lúa vàng cho các đơn vị tự thu hoạch, kịp làm gạo nuôi bộ đội, rồi sau ghi sổ báo lại. Phụ nữ các dân tộc Điện Biên xưa nay chỉ quen với công việc nương rẫy, quay sợi, dệt vải và làm những công việc nội trợ, nay đã bỏ tục lệ, xa nhà, rời khung cửi, xa gia đình, hăng hái lên đường, chẳng quản bom đạn, hy sinh vất vả, tham gia mở đường, tải thương, gánh gạo. Nhiều gia đình còn mang theo ngựa đi chở vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ bộ đội từ 1-2 tháng. Nhiều người hết thời gian phục vụ theo quy định nhưng vẫn tình nguyện ở lại, ngày đêm sát cánh cùng bộ đội lặn lội trên khắp các tuyến đường chiến dịch. Để kịp thời cung cấp đủ lương thực cho bộ đội, đồng bào các dân tộc không kể già, trẻ, gái, trai đã giã gạo đêm ngày, chắt chiu từng lạng gạo, mớ rau để kịp thời đưa ra tiền tuyến. Đây chính là sức mạnh tổng hợp được tạo nên bởi sự đoàn kết, đồng cam cộng khổ, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Đúng như đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục cung cấp khi nói về ý nghĩa của việc đóng góp sức người, sức của phục vụ nhu cầu tại chỗ đã khẳng định: “Một cân gạo, một cân thịt, một cân rau ở Tuần Giáo giá trị gấp nhiều lần so với từ hậu phương chuyển đến”. Sông núi Điện Biên ngoài vẻ trầm tĩnh vốn có ngàn đời, nhưng thời gian này lại ẩn chứa bên trong một không khí sục sôi, chuyển động chuẩn bị cho một chiến dịch lớn trong lịch sử của dân tộc.
Đối với đồng bào trong vùng địch tạm chiếm, đời sống vô cùng gian khổ, nhưng trước khi bị dồn đến các nơi tập trung đồng bào đã thả gia súc, gia cầm và báo tin cho bộ đội đến bắt để nuôi quân, nhất định không chịu để địch cướp. Mường Phăng trở thành trung tâm chỉ huy của chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân xã Mường Phăng đã tích cực chăm lo, bảo vệ an toàn tuyệt đối cho Bộ Tổng chỉ huy chiến dịch, tạo mọi điều kiện thuận lợi để Bộ Tổng chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ.
Mặc dù là nơi diễn ra chiến sự ác liệt, cuộc sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhân dân các dân tộc Điện Biên đã đóng góp cho chiến dịch Điện Biên Phủ 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt, 210 tấn rau xanh, 348 ngựa thồ, 38 thuyền mảng, hơn 25.070 cây gỗ các loại...
Mặc dù là nơi diễn ra chiến sự ác liệt, cuộc sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhân dân các dân tộc Điện Biên đã đóng góp cho chiến dịch Điện Biên Phủ 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt, 210 tấn rau xanh, 348 ngựa thồ, 38 thuyền mảng, hơn 25.070 cây gỗ các loại và huy động 16.972 dân công bằng 568.139 ngày công để đào đắp hàng triệu m3 đất đá làm đường kéo pháo, đường giao thông, vận chuyển hàng chục vạn tấn lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng, vũ khí trang bị phục vụ chiến dịch. Từ đầu tháng 3 đến hết tháng 4/1954, bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện phía Bắc Điện Biên phối hợp với bộ đội chủ lực đập tan các cụm phỉ ở Mường Tè, Sìn Hồ, Mường Lay, Quỳnh Nhai. Kết quả, ta đã làm tan rã hầu hết các cụm phỉ, tiêu diệt tại chỗ 88 tên, bắt sống 120 tên, thu 867 khẩu súng các loại... chỉ tính riêng huyện Điện Biên, là nơi trực tiếp diễn ra chiến sự, quân và dân của huyện đã phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu diệt và bắt 109 tên địch, thu 178 khẩu súng các loại.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu gian khổ và ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, 21 tiểu đoàn địch bị tiêu diệt, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại cùng nhiều đại bác, xe tăng và đồ dùng quân sự khác. Trong chiến thắng chung của dân tộc có công sức đóng góp của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, đã có 47 tập thể và 700 cá nhân là đồng bào và cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang tỉnh Điện Biên được Trung ương Đảng và Khu ủy Tây Bắc khen thưởng. Ý nghĩa, giá trị lịch sử và hiện thực của Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được Đảng bộ, chính quyền, quân và nhân dân các dân tộc Điện Biên phát huy trong suốt 65 năm qua và đã thu được những kết quả to lớn trên lĩnh vực xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị; tạo động lực to lớn để phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát. (Ảnh: TTXVN)
Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát. (Ảnh: TTXVN)
Đảng bộ, chính quyền, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh hôm nay luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi mãi không quên công ơn của các Anh hùng, liệt sĩ, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân cả nước trước đây đã không tiếc máu xương để đem lại chiến thắng Điện Biên Phủ. Quân và dân Điện Biên vô cùng tự hào được thay mặt cả nước gìn giữ di sản, phát huy giá trị lịch sử và truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng; quyết tâm đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong tỉnh xứng đáng với niềm tin và sự mong đợi của nhân dân cả nước luôn hướng về Điện Biên Phủ anh hùng./.
Bài: Đại tá Nguyễn Thanh Nghị - Chính ủy Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Điện Biên
Trình bày: Ngọc Toàn
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (07/5/1954 - 07/5/2019)”

