QUÂN VÀ DÂN ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ PHÁT HUY THẾ TRẬN CHIẾN TRANH NHÂN DÂN GÓP PHẦN VÀO THẮNG LỢI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

Suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bằng Bắc Bộ luôn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa là tiền tuyến lớn nhưng cũng là hậu phương lớn của mọi cuộc kháng chiến. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng bằng Bắc Bộ là chiến trường diễn ra nhiều trận giao tranh ác liệt, ghi lại nhiều chiến thắng oanh liệt, đồng thời là nơi cung cấp sức người, sức của, chi viện cho các chiến trường cả nước. Đặc biệt, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, quân và dân đồng bằng Bắc Bộ đã phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân, đồng thời phối hợp có hiệu quả với chiến trường chính, chi viện sức người, sức của cho các mặt trận, góp phần làm nên thắng lợi Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng, quân dân đồng bằng Bắc Bộ phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước, ra sức xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, từng bước làm chủ địa bàn đồng bằng, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, ngày càng đóng góp lớn lao vào sự nghiệp kháng chiến của toàn dân tộc. Đến đầu năm 1953, trên địa bàn đồng bằng thế trận chiến tranh nhân dân được củng cố vững chắc; khu du kích, căn cứ du kích được mở rộng, phong trào xây dựng làng chiến đấu phát triển rộng khắp, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển; lực lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh, bộ đội địa phương và dân quân du kích căn bản đã đảm đương được nhiệm vụ tác chiến ở địa bàn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cuối năm 1953. (Ảnh: TTXVN)
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cuối năm 1953. (Ảnh: TTXVN)
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị: “Đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, củng cố và phát triển các căn cứ du kích và khu du kích, phối hợp với các cuộc tiến công trên (các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung-Hạ Lào)”, tháng 10/1953, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cụ thể cho Liên khu 3, Khu Tả Ngạn cùng với Mặt trận Hà Nội “tiến công tiêu hao, tiêu diệt địch, đánh phá các đường giao thông thủy, bộ và sân bay, giam chân chủ lực địch”. Riêng Đại đoàn 320 (đứng chân ở vùng tự do Tây Nam tỉnh Ninh Bình) làm lực lượng dự bị, chuẩn bị sẵn sàng tham gia tiến công địch ở đồng bằng”. Thực hiện nhiệm vụ, quân và dân đồng bằng tiếp tục củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, sẵn sàng đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, phối hợp với các chiến trường.

Bộ đội ta xông lên đánh chiếm cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. (Ảnh: TTXVN)
Bộ đội ta xông lên đánh chiếm cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, chiều 13/3/1954. (Ảnh: TTXVN)
Tháng 12/1953, sau thất bại của cuộc hành quân Hải Âu đánh vào Tây Nam Ninh Bình, để giành thế chủ động chiến trường, địch tổ chức liên tiếp 3 cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ du kích Nam Thái Bình, Bắc sông Luộc nhằm tiêu diệt chủ lực, tàn phá khu căn cứ du kích, kiềm chế hoạt động phối hợp Đông Xuân của ta. Từ tháng 12/1953 đến tháng 3/1954, địch đã tổ chức 392 trận càn ở các vùng tạm chiếm Kiến An, xung quanh đô thị, cứ điểm lớn ở Hưng Yên, Hải Dương để xóa cơ sở, tiêu diệt lực lượng của ta, củng cố vùng chiếm đóng kết hợp thu thuế, bắt thanh niên đi lính.
Trong 3 tháng mở đầu chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chủ động tiến công chống phá kế hoạch bình định của địch, quân và dân một số tỉnh đồng bằng sông Hồng đã tiêu diệt hơn 2.000 tên địch, làm bị thương 1.147 tên, bắt 733 tên, số vũ khí thu được của địch đủ trang bị cho một trung đoàn chủ lực.
Trước tình hình trên, Liên khu 3 và Khu Tả Ngạn họp bàn phân tích tình hình, âm mưu của địch, đề ra phương hướng hoạt động. Nhiệm vụ trước mắt của các đơn vị chủ lực và bộ đội địa phương là khẩn trương củng cố, chuẩn bị chiến trường để sẵn sàng cùng bộ đội chủ lực đánh tập trung, tiêu diệt lớn lực lượng địch khi thời cơ đến; phát triển mạnh lối đánh tập kích, phục kích, đánh giao thông, vây điểm diệt viện, đánh điểm diệt viện, mạnh dạn đánh sâu vào hậu phương nơi địch sơ hở để tiêu diệt cơ quan đầu não, phá sân bay, bến cảng, kho tàng và phương tiện chiến tranh của địch. Trong 3 tháng mở đầu chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chủ động tiến công chống phá kế hoạch bình định của địch, quân và dân một số tỉnh đồng bằng sông Hồng đã tiêu diệt hơn 2.000 tên địch, làm bị thương 1.147 tên, bắt 733 tên, số vũ khí thu được của địch đủ trang bị cho một trung đoàn chủ lực.
Phát huy thắng lợi, lực lượng vũ trang đồng bằng Bắc Bộ phối hợp các đơn vị chủ lực mở các cuộc tiến công đập tan phòng tuyến sông Đáy và sông Luộc, tiêu diệt và bức rút nhiều đồn bốt, căn cứ quân sự của địch, buộc chúng phải chuyển từ thế chủ động tìm diệt lực lượng ta bằng các cuộc hành quân càn quét quy mô lớn sang chống đỡ. Những thắng lợi đó đã mở đầu cho đợt hoạt động chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ của quân dân đồng bằng.

Chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 23/2/1954, Bộ Chính trị ra chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ của quân dân đồng bằng Bắc Bộ: “Lợi dụng mọi cơ hội để đánh nhỏ, phá hoại giao thông, kho tàng, đánh địa lôi, phá hoại cầu đường, làm cản trở vận chuyển của địch, giữ một bộ phận cơ động của địch, chống địch bắt lính, đồng thời phát triển cơ sở của ta”. Chấp hành chỉ thị, quân dân đồng bằng đẩy mạnh chiến tranh du kích, phối hợp chiến trường Điện Biên Phủ.
Ngày 2/3/1954, Liên khu ủy 3 ra chỉ thị nêu rõ: “Tranh thủ thời cơ hoạt động rộng khắp, củng cố khu du kích cũ và mới, mở thêm khu du kích. Nắm vững phương châm tác chiến, tranh thủ tiến công địch, phối hợp các chiến trường toàn quốc và các địa phương trong Liên khu. Đẩy mạnh hoạt động trên các đường giao thông, tăng cường hoạt động của bộ đội địa phương và dân quân du kích. Phát triển tập kích, phục kích trong chống càn, chú trọng dìu dắt du kích trong chống càn nhỏ, kìm giữ lực lượng cơ động địch, thu hút địch ở hữu ngạn để phối hợp đắc lực với Điện Biên Phủ và các chiến trường khác”.
Lợi dụng mọi cơ hội để đánh nhỏ, phá hoại giao thông, kho tàng, đánh địa lôi, phá hoại cầu đường, làm cản trở vận chuyển của địch, giữ một bộ phận cơ động của địch, chống địch bắt lính, đồng thời phát triển cơ sở của ta.
Mở đầu đợt hoạt động là trận tập kích sân bay Gia Lâm, sân bay quan trọng bậc nhất ở bắc Đông Dương, đầu cầu tiếp tế hàng không cho Điện Biên Phủ, phá hủy 18 máy bay, nhà sửa chữa và kho xăng, diệt 16 tên địch. Ba ngày sau, đêm 6 rạng ngày 7/3/1954 phân đội chiến đấu gồm 32 chiến sĩ bộ đội tỉnh Kiến An tập kích sân bay Cát Bi, 59 máy bay cùng nhiều vũ khí và phương tiện chiến đấu của địch bị phá hủy. Đây là chiến thắng lớn nhất về tiêu diệt và phá hủy máy bay của địch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cùng với chiến thắng Gia Lâm, chiến thắng Cát Bi đã ảnh hưởng lớn đến chiến trường toàn quốc. Địch bị tổn thất nặng, gặp khó khăn trong việc dùng không quân tiếp tế cho các chiến trường, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ.

Tháng 3/1954, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Thành ủy Hà Nội quyết định đánh sân bay Gia Lâm, căn cứ hậu cần bằng đường hàng không lớn nhất của thực dân Pháp ở miền bắc Đông Dương. (Ảnh: baochinhphu.vn)
Tháng 3/1954, phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, Thành ủy Hà Nội quyết định đánh sân bay Gia Lâm, căn cứ hậu cần bằng đường hàng không lớn nhất của thực dân Pháp ở miền bắc Đông Dương. (Ảnh: baochinhphu.vn)
Tiếp đó, các địa phương trên vùng đồng bằng đẩy mạnh hoạt động chống càn, bao vây vị trí địch. Riêng tháng 4/1954, bộ đội địa phương và dân quân du kích Ninh Bình diệt 121 tên địch, phá hủy 5 xe tăng, 17 xe quân sự, 6 khẩu pháo. Ngày 2/4/1954, du kích An Lão đã đánh địa lôi lật đổ đoàn tàu gồm 22 toa, gần 200 tên địch bị tiêu diệt; tiếp đó ngày 15/4 phá thêm một đoàn tàu và 4 toa xe ở khu vực nhà máy gạch, diệt 20 tên địch. Đêm 11/3/1954, được sự trợ giúp của bộ đội Trung đoàn 42 và dân quân du kích các huyện Tiên Lữ, Phù Cừ, mở đợt “tổng công kích Đường 5”, diệt 3 vị trí, giải tán 3 vị trí tề binh khác, buộc địch phải rút khỏi 5 tháp canh, làm gián đoạn tuyến đường sắt Hải Phòng-Hà Nội suốt một tuần lễ.
Sau hai tuần tiến công địch, lực lượng vũ trang trên địa bàn Hưng Yên đã tổ chức nhiều trận đánh mìn, cắt đường sắt Hà Nội-Hải Phòng thành nhiều đoạn, khiến cho giao thông trên tuyến bị tê liệt. Ở phía bắc tỉnh, chưa đầy nửa tháng từ 13 đến 26/3, bộ đội và du kích đã đánh 57 trận địa lôi, phá hủy 43 xe các loại, diệt 179 tên địch, làm bị thương 64 tên, bắt 108 lính Âu Phi, khu du kích Hưng Yên được mở rộng thêm 78 thôn, nối thông căn cứ du kích sông Luộc lên đến nam sông Đuống, hình thành thế trận vây ép tuyến giao thông Hà Nội-Hải Phòng, tạo hành lang nối thông vùng Tả Ngạn với căn cứ địa Việt Bắc.

Các chiến sĩ lập công trong trận tập kích sân bay Cát Bi. (Ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)
Các chiến sĩ lập công trong trận tập kích sân bay Cát Bi. (Ảnh: Bảo tàng Hải Phòng)
Tại Thái Bình, trong 15 ngày đầu tháng 2/1954, bộ đội và du kích đã đánh trả hai cuộc càn quét của binh đoàn số 8 càn vào khu du kích Vũ Tiên, Thư Trì, Kiến Xương. Sau ba ngày chống càn, quân dân Thư Trì đã diệt 96 tên, làm bị thương 161 tên. Phá càn thành công, lực lượng vũ trang Thái Bình chuyển sang vây ép địch, dân quân du kích các làng chiến đấu các huyện Kiến Xương, Vũ Tiên, Tiền Hải phối hợp với Tiểu đoàn 53 bộ đội địa phương tỉnh tấn công Thân Thượng, nơi địch dồn hơn 4 vạn dân trong khu tập trung rộng 3km2, được phòng thủ kiên cố, canh gác nghiêm ngặt. Sau 30 phút nổ súng, ta đã tiêu diệt 50 tên địch, bắt 58 tên, thu 3 trung liên, 111 súng trường. Chiến thắng đã giáng đòn mạnh vào âm mưu dồn làng, tập trung dân của địch.

Bộ đội ta tấn công sân bay Mường Thanh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Bộ đội ta tấn công sân bay Mường Thanh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)

Ngày 13/3/1954, ngày mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ, đạn pháo của ta đã bắn trúng nhiều vị trí của địch trên đồi Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. (Ảnh: TTXVN)
Các chiến sĩ từng tham gia trận đánh sân bay Gia Lâm. Ảnh tư liệu
Qua đợt hoạt động phối hợp chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng dân quân du kích đồng bằng Bắc Bộ phát triển nhanh, hoạt động mạnh mẽ đều khắp; phối hợp bộ đội hoặc độc lập chống địch càn quét; liên tục đánh phá giao thông, phục kích, tập kích diệt tề, trừ gian. Hoạt động bao vây vị trí địch phát triển lên bước mới, có những đồn binh lính địch phải trốn cả ngày dưới hầm; địch lúng túng đối phó, tổ chức càn quét giải vây lại rơi vào các ổ phục kích của ta. Ở nhiều nơi phải xin hàng như: An Xá (Thái Bình), Phạm Xá (Hà Nam) hoặc bị bức rút như: Hải Lãng (Hà Nam), Bất Não, Bến, Quan Dinh (Thái Bình)...
Chỉ trong tháng 3/1954, dân quân du kích đồng bằng đã phối hợp với bộ đội 87 lần, hoạt động độc lập 409 lần, tháng 4/1954, phối hợp với bộ đội 409 lần, hoạt động độc lập 539 lần. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, cùng với quân dân cả nước, quân dân Liên khu 3, Khu Tả Ngạn đã chủ động tiến công giành nhiều thắng lợi. Quân dân đồng bằng Bắc Bộ đã tiêu diệt hơn 4.000 tên địch; tiêu diệt, bức rút, bức hàng 250 vị trí; bắn rơi, phá hủy 82 máy bay; thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh; khiến địch không thể rút lực lượng cơ động để tăng cường cho các chiến trường, nhất là Điện Biên Phủ; mở rộng nhiều khu du kích, căn cứ du kích, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch trong các thành phố, thị xã, các trục đường giao thông huyết mạch và các mục tiêu trọng yếu.
Quân dân đồng bằng Bắc Bộ đã tiêu diệt hơn 4.000 tên địch; tiêu diệt, bức rút, bức hàng 250 vị trí; bắn rơi, phá hủy 82 máy bay; thu và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh; khiến địch không thể rút lực lượng cơ động để tăng cường cho các chiến trường, nhất là Điện Biên Phủ.
Đi đôi với các hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị và công tác binh vận phát triển mạnh mẽ. Tại các vùng bị địch chiếm đóng, nhân dân nổi dậy phá bỏ hầu hết các trại tập trung trở về quê cũ làm ăn. Phong trào đấu tranh của nhân dân chống địch bắt lính cũng diễn ra rộng khắp vùng đồng bằng. Chỉ tính riêng ở phía Tả Ngạn 3 tháng đầu năm 1954 đã có tới hơn 200 cuộc đấu tranh. Ở Hà Nam, Nam Định, trong tháng 2 và tháng 3 năm 1954, nhân dân liên tục đấu tranh đòi địch thả thanh niên bị bắt giam vô cớ trong các trại tập trung.
Những thắng lợi quân sự, chính trị, công tác binh vận của quân dân đồng bằng sông Hồng đã góp phần làm tan rã hàng chục nghìn lính ngụy. Điển hình là ở Hà Nam, tháng 4 /1954, Tỉnh ủy phát động đợt tiến công chính trị vào hàng ngũ địch. Có ngày hàng nghìn đồng bào kéo đến đồn bốt, doanh trại địch kêu gọi người thân trở về. Trong đợt tiến công binh vận này ở Hà Nam có tới 4.082 binh lính địch bỏ ngũ.

Những đoàn xe đạp thồ vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Những đoàn xe đạp thồ vận chuyển lương thực, thực phẩm phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Đồng thời với hoạt động tác chiến, quân dân đồng bằng Bắc Bộ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đóng góp sức người, sức của chi viện cho phía trước, nhất là mặt trận chính Tây Bắc-Điện Biên Phủ. Những tháng đầu năm 1954, gần 1 vạn thanh niên nhập ngũ bổ sung cho quân thường trực. Hàng vạn dân công từ các tỉnh đồng bằng Liên khu 3, Khu Tả Ngạn tấp nập thồ, tải súng đạn, lương thực, thực phẩm ra phía trước. Hội đồng cung cấp mặt trận của Liên khu và các tỉnh được thành lập. Đặc biệt, tại Ninh Bình, Hòa Bình nằm trên đường tiếp viện từ khu 3, khu 4 lên Tây Bắc, quân và dân các huyện vùng tự do làm hàng trăm lán trại, kho tàng, xây dựng và bảo vệ Binh trạm tiền phương số 1 của Tổng Cục Cung cấp. Trên các trục đường số 12, 21, 59, các “quán quân dân” ngày đêm phục vụ bộ đội, dân công hành quân ra mặt trận.
Mặc dù vừa trải qua vụ đói ngặt nghèo, nhân dân các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ vẫn tự nguyện đóng góp cho Nhà nước hàng nghìn tấn lương thực, nhiều địa phương nộp vượt chỉ tiêu quy định. Liên khu 3, Khu Tả Ngạn đã cung cấp cho Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ: 1.464 tấn gạo, 64 tấn thịt, 266 tấn muối, 51,66 tấn rau khô, 6.400 dân công, 1.712 xe đạp thồ, 736 xe bò, ngựa, trâu.
Ngày 7/5/1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, buộc thực dân Pháp phải đi đến ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.

Từ thực tiễn thành công trong phát huy sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân của quân và dân đồng bằng Bắc Bộ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, rút ra một số vấn đề chủ yếu:
Một là, quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc toàn diện, chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân phù hợp trên địa bàn Quân khu.
Từ thành công của quân và dân đồng bằng Bắc Bộ trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đã để lại bài học kinh nghiệm về phát huy vai trò của thế trận chiến tranh nhân dân, là cơ sở để Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân; phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện nhiều giải pháp thiết thực, đồng bộ như: tuyên truyền, giáo dục nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang và toàn dân về đường lối, quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; chăm lo xây dựng tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong khu vực phòng thủ có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao; triển khai thực hiện tốt công tác vận động quần chúng nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là các địa bàn biên giới, biển đảo, địa bàn kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số và trọng điểm về tôn giáo; triển khai sâu, rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố “thế trận lòng dân” ngày càng vững mạnh; chăm lo xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, quân sự, an ninh, đối ngoại; xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh toàn diện, có sức chiến đấu cao trong tác chiến phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, có đủ khả năng xử trí các tình huống về quốc phòng, an ninh.
Hai là, tập trung xây dựng, bố trí lực lượng, phương tiện và thiết bị chiến trường trên toàn địa bàn quân khu theo kế hoạch thống nhất nhằm phát huy có hiệu quả khả năng, sở trường của từng lực lượng, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong cả thời bình và thời chiến.
Với tính chất địa bàn đa dạng, phức tạp, gồm cả đất liền, biên giới và biển, đảo, nên việc xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn quân khu được xác định cả trên đất liền và biển, đảo nhằm bảo đảm tính liên kết, liên hoàn, vững chắc trên toàn địa bàn, nhất là giữa tuyến bờ và biển, đảo. Phát huy bài học xây dựng, bố trí lực lượng trong cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 nói riêng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự các cấp thường xuyên nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bám sát tình hình thực tiễn, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng, điều chỉnh, bổ sung phương án, kế hoạch tác chiến. Tổ chức bố trí lực lượng phù hợp trên từng địa bàn, từng vùng, miền; bảo đảm vừa đáp ứng được yêu cầu rộng khắp, vừa tập trung có trọng điểm, có lực lượng tại chỗ, lực lượng cơ động, ưu tiên cho các hướng và địa bàn trọng điểm, nhất là tuyến biên giới và trên vùng biển, đảo, địa bàn xung yếu; hình thành các tuyến phòng thủ liên hoàn, vững chắc, tạo sự liên kết giữa tuyến trước với tuyến sau, biên giới với nội địa, giữa đất liền, ven bờ và vùng biển, đảo.
Đặc biệt đối với vùng biển, quan tâm xây dựng và bố trí lực lượng tại chỗ trên các đảo, nhất là các đảo xa bờ nhằm nâng cao khả năng độc lập tác chiến; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng hải quân, phòng không-không quân, pháo binh, biên phòng, cảnh sát biển và các đơn vị chủ lực của Bộ đứng chân trên địa bàn nắm chắc tình hình, kịp thời xử trí các tình huống.
Bên cạnh đó, thường xuyên coi trọng xây dựng, củng cố các căn cứ chiến đấu, các chốt chiến dịch, các khu vực phòng thủ then chốt, cụm điểm tựa, các căn cứ hậu cần, kỹ thuật, bến cập tàu, hồ và bể chứa nước ngọt, hệ thống năng lượng mặt trời… bảo đảm cho các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển, đảo, tuyến biên giới và trong các hoạt động tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, duy trì sức chiến đấu liên tục, bám trụ chiến đấu dài ngày khi có chiến tranh xảy ra.

Lễ thượng cờ tại quảng trường Ba Đình. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Lễ thượng cờ tại quảng trường Ba Đình. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Ba là, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng thế bố trí chiến lược về kinh tế.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân đồng bằng Bắc Bộ không chỉ phối hợp thực hiện có hiệu quả hoạt động tác chiến mà còn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đóng góp sức người, sức của chi viện cho phía trước, nhất là mặt trận chính Tây Bắc-Điện Biên Phủ.
Vận dụng sáng tạo bài học trong lịch sử, Quân khu 3 xác định trong tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, luôn coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng ở từng địa phương và trên toàn địa bàn. Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang, nhất là các đơn vị trực tiếp thực hiện các dự án kết hợp kinh tế với quốc phòng chủ động phối hợp với các cấp, các ngành, các địa phương xây dựng kế hoạch, cơ chế phối hợp huy động các nguồn lực và giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế-xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân đồng bằng Bắc Bộ không chỉ phối hợp thực hiện có hiệu quả hoạt động tác chiến mà còn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đóng góp sức người, sức của chi viện cho phía trước, nhất là mặt trận chính Tây Bắc-Điện Biên Phủ.
Trong đó, tập trung vào xây dựng các dự án kinh tế mang tính lưỡng dụng, như: hệ thống cảng biển, đường tuần tra biên giới, đường xuyên đảo, hệ thống thông tin liên lạc… Cùng với quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển vùng kinh tế và xây dựng hạ tầng kinh tế, Bộ Tư lệnh Quân khu tiếp tục điều chỉnh xây dựng các công trình chiến đấu, hình thành thế trận phòng thủ liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu, có trọng điểm ở từng địa phương và trên địa bàn toàn Quân khu. Các địa phương trên địa bàn Quân khu đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng xây dựng các công trình quốc phòng, chủ động nghiên cứu xây dựng các đề án kinh tế, quốc phòng trên vùng biển, đảo Đông Bắc, góp phần phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh tuyến biên giới, khu vực ven biển và vùng biển, đảo của Quân khu 3.
Bốn là, xây dựng lực lượng quốc phòng, nhất là lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, làm lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân trên địa bàn quân khu.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định vai trò to lớn của lực lượng vũ trang ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Do đó, chăm lo xây dựng lực lượng quốc phòng, nhất là lực lượng vũ trang trên địa bàn, bảo đảm đủ sức làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, là nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân. Phát huy bài học đó, Bộ Tư lệnh Quân khu tập trung xây dựng lực lượng thường trực theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có biên chế tinh, gọn, mạnh, số lượng phù hợp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chất lượng tổng hợp và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao. Đối với lực lượng dân quân tự vệ tập trung xây dựng theo hướng “vững mạnh, rộng khắp”, phù hợp với đặc điểm địa bàn và khả năng thực tế của mỗi địa phương, cơ sở, doanh nghiệp.
Trong đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ tại chỗ, cơ động, thường trực và dân quân tự vệ biển; quan tâm quản lý nguồn lực lượng dân quân tự vệ để sẵn sàng mở rộng khi cần thiết. Đối với lực lượng dự bị động viên, Bộ Tư lệnh Quân khu coi trọng xây dựng từ khâu tạo nguồn, đăng ký, quản lý, huấn luyện đến việc bảo đảm chế độ, chính sách. Chú trọng việc bồi dưỡng, đào tạo và bố trí sĩ quan dự bị trong các cơ quan ban, ngành, đoàn thể ở các tỉnh, thành phố, huyện, quận.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những chiến công hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước ta, đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng phát triển lên một tầm cao mới. Thắng lợi này không chỉ là chiến công của các lực lượng trên chiến trường mà còn là sự góp sức của đồng bào cả nước, trong đó có sự đóng góp to lớn của quân dân đồng bằng Bắc Bộ. Những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh của thế trận chiến tranh nhân dân của quân và dân đồng bằng Bắc Bộ-Quân khu 3 trong phối hợp Chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn còn nguyên giá trị, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Nội dung: Trung tướng Nguyễn Quang Cường
Bài viết tại Hội thảo "Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019)"
Trình bày: Ngô Hương