Rồng Việt
linh thiêng huyền ảo và lung linh gần gũi
Trong 12 con giáp, rồng là linh vật mang tính biểu tượng nhiều nhất và cũng là linh vật duy nhất không có thật. Tuy nhiên, rồng lại hiện diện trong văn hóa Việt hết sức gần gũi, thân quen, từ cung đình cho đến đời sống dân gian. Nhân năm mới Giáp Thìn, cùng nhìn lại những hình tượng rồng trong văn hóa Việt và trong lịch sử.
Điềm lành đi cùng văn hóa Việt
Ở những nước Đông Á, Rồng là điềm lành mang đến những điều tốt đẹp. Rồng là hình ảnh tượng trưng cho quyền lực, cao sang và biến hóa. Từ Trung Hoa, Rồng đứng đầu trong tứ linh: long-lâN-quy-phượng, là biểu trưng trang trọng cho sự tôn quý.
Trong buổi đầu sơ sử hình thành nhà nước Văn Lang-Âu Lạc, cộng đồng cư dân Việt cổ đã bắt đầu định hình ý thức dân tộc. Huyền thoại về nguồn gốc dân tộc, tín ngưỡng sùng bái vật tổ cũng xuất hiện. Họ đã chọn cá sấu, con vật dũng mãnh sống dưới nước làm vật tổ. Nhưng hình ảnh vật tổ đó không hoàn toàn là cá sấu được tả thực mà đã được cách điệu thành giao long với chiếc đầu nhọn, thân thon dài, đuôi uốn cong, có hai hoặc bốn chân, đôi khi xuất hiện sừng hoặc bờm trên đầu. Hình ảnh những cặp giao long châu đầu, dựa lưng, áp mình vào nhau xuất hiện nhiều trên đồ đồng Đông Sơn là biểu tượng sức mạnh của người Việt cổ.
Khi người Việt giành lại độc lập sau nghìn năm bắc thuộc, hình tượng rồng cũng gắn với vương triều của một quốc gia độc lập, gắn với biểu tượng quyền lực cao nhất của chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Hình tượng rồng đặc biệt xuất hiện nhiều từ khi có địa danh Thăng Long trong sử sách, khi Lý Công Uẩn có quyết định táo bạo dời đô từ động Hoa Lư thế hiểm đến vùng đất phía nam bên dòng sông lớn Nhĩ hà.
Đại Việt sử ký toàn thư đã chép về cuộc chuyển đô lịch sử đó: “Mùa thu, tháng bảy (năm Canh Tuất, 1010) vua dời đô từ thành Hoa Lư sang kinh đô lớn là Đại La của kinh phủ. Thuyền tạm đỗ ở dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vì thế đổi gọi là thành Thăng Long…”. Kinh đô mới, từ buổi khai sáng vương triều Lý, được chọn mang tên Thăng Long mang nghĩa Rồng bay lên, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự chủ lâu dài cho dân tộc. Rồng là điềm lành gắn cùng với ước mong thăng phát, với hưng thịnh và hạnh phúc từ buổi bình minh kiến tạo văn hiến Đại Việt.
"Các vua Lý không độc chiếm biểu tượng rồng cho riêng mình như các bậc đế vương Trung Hoa mà khéo léo biến con rồng trở thành biểu tượng của quốc gia Đại Việt non trẻ, biến một biểu tượng nghệ thuật trở thành nguồn sức mạnh trong lòng dân để bảo vệ quốc gia, bảo vệ vương quyền".
PGS Đinh Hồng Hải,
Khoa Nhân học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội
Rồng qua các thời kỳ lịch sử
Cũng từ đây, trải dài dặm đường lịch sử từ Thăng Long xưa đến Hà Nội ngày nay, mảnh đầt này được nhiều thế hệ con người tài hoa tích lũy kỳ công xây dựng và bảo vệ, xứng đáng là “kinh đô mãi muôn đời”.
Trong suốt gần 1000 năm sau đó, bắt đầu từ thời Lý đến hết thời Nguyễn, rồng trở thành linh vật biểu trưng của quyền lực trung ương tối cao, gắn liền với vua, cung đình và hoàng tộc. Rồng oai nghiêm trên áo của vua và nhiều vật dụng khác của hoàng đế, hoàng tộc và ở những nơi tông miếu linh thiêng.
Hình rồng còn được đặc biệt gắn/vẽ lên trang trọng trên các đồ ngự dụng (đồ dùng của vua) trong cung, trên các biểu tượng lễ nghi, trên lễ phục có tính quan phương ở cấp cao.
* Vua được gọi ẩn dụ là Long - Rồng. Những đồ vật gắn với sinh hoạt hằng ngày của vua cũng đi kèm với chữ long - rồng. Mặt rồng có nghĩa là dung mạo của hoàng đế, điệu bộ bước đi của vua được gọi là dáng rồng, thềm rồng chỉ cung điện của vua, bước lên thềm rồng là cách diễn tả tôn xưng nói về việc được vua cho đến gần, giường vua nằm là long sàng, ghế vua ngồi là long ngai, áo vua mặc thêu hình rồng là long cổn… .
Hình Rồng từ huyền thoại được hiện hữu bằng sự kết hợp những nét tinh túy nhất của nhiều loài: đầu hổ, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, bàn chân của hổ. Số khúc uốn của thân rồng cũng dựa vào con số triết lý linh thiêng… Rồng mỗi thời đều có thêm biến hóa trong những nét tạo hình.
Rồng thời Lý
Hình Rồng thời Lý có mình trơn, thân uốn cong nhiều vòng uyển chuyển, mềm mại và nhỏ dần về phía đuôi. Tạo hình rồng thời Lý là sự chuẩn mực, hoàn thiện cao về trình độ mỹ thuật từ tạo hình rồng đã có trước đó thời Đinh-Tiền Lê.
Dù trên bất cứ di tích, chất liệu nào, cấu trúc và phong cách rồng thời Lý đều tương đối thống nhất với đặc trưng nổi bật là trên đầu có mào lửa, có sừng tạo hình như sừng hươu hay đôi khi như nhánh san hô, thân mình trơn nhẵn, tròn trặn, thon nhỏ như thân rắn, uốn nhiều khúc hình sin mềm mại, nhẹ nhàng theo kiểu thắt miệng túi. Các chi tiết bờm, râu, lông khuỷu chân luôn theo một nhịp điệu tương đồng với thân rồng… Móng chân rồng dài nhọn như tạo hình móng của nhiều linh thú khác thời Lý, với số móng đa dạng từ 3, 4 đến 5.
Tất cả tạo nên một phong cách hoàn chỉnh quy phạm nhưng cũng đầy trau chuốt, tinh tế và thanh thoát. Điểm khác biệt có thể nhận ra đó là chiều hướng vận động của rồng: bay theo phương nằm ngang, thẳng đứng, trong ô hình chữ nhật, hình tròn hoặc hình lá đề, lá sen…
Rồng thời Trần
Sang thời Trần (thế kỷ 13-14), do sự chuyển giao triều đại diễn ra trong hòa bình nên về cơ bản hình thức rồng thời kỳ này là sự phát triển trên cơ sở kế thừa phong cách rồng thời Lý. Tuy nhiên, tinh thần thượng võ hình thành nên qua nhiều cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã dần tạo một khí thế, phong cách mới cho con rồng nhà Trần. Nó trở nên khỏe khắn, mập mạp hơn, số lượng khúc uốn cũng ít đi. Đồng thời, một số chi tiết mới bắt đầu xuất hiện và ngày càng trở nên phổ biến như cặp sừng hoặc vây lưng hình răng cưa. Tổng quan cho thấy, rồng thời Trần đã giảm đi sự trau chuốt, hướng tới sự phóng khoáng, đơn giản nhưng khỏe khoắn.
Rồng thời Trần đã có một số yếu tố khác biệt như: thân mập khỏe khoắn hơn; phần vòi ngắn lại và mập hơn, các mép hình “ngọn lửa” thưa nhỏ lại hoặc tiêu biến hẳn rất giống với con rồng Tống, Nguyên đương thời; không còn phần cong chữ S; sừng phổ biến với kiểu dáng phong phú; bờm xuất hiện loại 2 dải ngắn không vắt lên hay duỗi ra sau mà vòng xuống gáy; vảy xuất hiện nhiều hơn kể cả ở một số phiên bản rồng nhỏ; móng vuốt ngắn và to hơn; xuất hiện nhiều tư thế mới.
Rồng thời Lê
Thời Lê sơ (thế kỷ 15) là thời kỳ hoàng kim của chế độ phong kiến trung ương tập quyền ở Việt Nam, Nho giáo phát triển tới đỉnh cao. Triều đình đã có những quy định chặt chẽ về điển lễ vương triều, rồng trở thành biểu tượng của đấng thiên tử. Những thứ có vẽ rồng 5 móng chỉ dành riêng cho nhà vua. Bởi vậy, hình tượng rồng trong nghệ thuật thời kỳ này gần như biến đổi hẳn. Những yếu tố truyền thống đã dần mất đi và thay vào đó là mẫu hình rồng thể hiện sự tiếp thu từ con rồng phương bắc với những quy định cụ thể như mắt quỷ, mũi sư tử, thân rắn, vảy cá chép, chân cá sấu, móng chim ưng, vây lưng hình răng cưa sắc nhọn... Do đó, hình thức rồng trở nên uy nghi, oai vệ và dữ tợn hơn.
Thoạt nhìn con rồng Lê sơ rất giống con rồng nhà Minh, nhưng nếu quan sát và so sánh kỹ lưỡng, có thể nhận ra nhiều khác biệt đặc trưng mà chỉ con rồng Lê sơ mới có. Rồng Lê sơ cũng như mọi con rồng Việt Nam ở các thời kỳ miệng thường ngậm châu ngọc, phần lông mày và râu quai nón có hình “dấu phẩy” đặc trưng, vây trên thân và đuôi mềm mại hơn con rồng thời Minh, vây được thể hiện các đường sọc dày, phần râu mép và túm lông ở khuỷu chân luôn được kéo dài bay bổng, phần bờm thường xẻ ra hai bên, xuất hiện tư thế một chân trước cầm lấy râu rất đặc trưng.
Đặc điểm cấu trúc và xu hướng vận động của rồng cũng rất đa dạng. Nhà Mạc tuy chỉ tồn tại mấy chục năm trong thế kỷ 16, nhưng cũng đã kịp định hình một phong cách nghệ thuật riêng mà dấu ấn nổi bật là khúc thân uốn hình yên ngựa. Nói chung, rồng thời Mạc đã bớt đi vẻ uy nghi so với rồng Lê sơ.
Sang thời Lê Trung Hưng, khúc thân uốn yên lưng ngựa này đã dần bị loại bỏ. Đặc biệt, từ thế kỷ 17, khi văn hóa dân gian phát triển mạnh, hình tượng rồng cũng đã kịp thời thích ứng. Bên cạnh những hình rồng uy nghi trong nghệ thuật cung đình, đã xuất hiện ngày càng phổ biến những mô típ rồng mang đậm tâm thức dân gian, thể hiện sự vui tươi, phóng túng, đặc biệt là trong điêu khắc gỗ đình làng. Mảng chạm hình rồng bị chó đuổi ở chùa Cói (Vĩnh Phúc) hay hình rồng nô đùa với thú ở đình Thổ Hà (Bắc Giang)… là những minh chứng rõ nét.
Rồng thời Nguyễn
Đến thời Nguyễn, hình tượng rồng đã đạt đến sự phong phú tối đa về đề tài, chất liệu và hình thức biểu đạt.
Đặc điểm của rồng thời Nguyễn là có đuôi xoáy tròn hoặc xòe rẻ quạt. Trong nghệ thuật cung đình, rồng đã trở lại vẻ uy nghi, biểu trưng cho sức mạnh vương quyền. Đặc điểm hình thức của rồng cũng được quy định riêng cho vua, hoàng tộc hoặc từng phẩm hàm quan lại khác nhau..., trong đó dành cho vua luôn là rồng 5 móng. Trang phục của chư hầu, hoàng thân, hoàng tử, hoàng tôn đều thêu rồng 4 móng.
Bên cạnh đó, rồng trong nghệ thuật dân gian vẫn tiếp mạch phát triển từ thời kỳ trước. Bởi vậy, có thể nói, hình tượng rồng thời Nguyễn hiện lên vô cùng đa dạng như rồng bay trong mây, rồng ngậm chữ Thọ, rồng chầu mặt trời… Đặc biệt, hình tượng rồng cách điệu từ cỏ cây, hoa lá như trúc hóa rồng, lá hóa rồng, mai hóa rồng… cũng xuất hiện phổ biến và ngày càng trở nên gần gũi.
Linh vật rồng tiêu chuẩn phải là sự hội tụ đầy đủ các đặc điểm được cho là tốt đẹp nhất của 9 con vật có thật: Thân rắn, vảy cá chép, đầu lạc đà, sừng hươu, chân hổ, móng vuốt đại bàng, tai bò, mũi và bờm sư tử, đuôi gà trống. Và nếu là rồng tượng trưng cho hoàng đế thì thân phải có 81 vảy dương, 36 vảy âm, thân uốn 9 khúc (tức phải là số 9 hoặc bội số của 9 - con số lẻ - số dương cao nhất); chân rồng lại phải có 5 móng (số chính giữa trong hàng số lẻ). Thiếu những yếu tố trên, rồng không còn là linh vật rồng đích thực nữa mà là những biến thể của nó. Những biến thể này thường được dùng tượng trưng cho hoàng tử, hoàng thân và các quan lại, hay đơn giản chỉ dùng để trang trí như mãng long, giao long, long mã…
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế
Rồng trang trí trên bàn đạp yên ngựa thời Trần.
Rồng trang trí trên bàn đạp yên ngựa thời Trần.
Rồng trên ấn tín thời Nguyễn.
Rồng trên ấn tín thời Nguyễn.
Rồng thời Trần chạm trên cánh cửa chùa Phổ Minh (Nam Định).
Rồng thời Trần chạm trên cánh cửa chùa Phổ Minh (Nam Định).
Bậc thềm chạm rồng ở Lăng vua Tự Đức.
Bậc thềm chạm rồng ở Lăng vua Tự Đức.
Rồng bước từ cung đình ra dân gian
Hình tượng rồng luôn mang nội dung cao quý trong nền mỹ thuật dân tộc cả ở cung đình và trong dân gian.
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là nơi thể hiện “đậm đặc” nhất, tinh mỹ nhất hình tượng rồng trên các Bảo vật quốc gia đang được lưu giữ ở đây.
Tại Hoàng thành Thăng Long, có một Bảo vật quốc gia “đặc tả” đầu rồng thời Trần. Đó là khối tượng tròn bằng đất nung khá lớn và nguyên vẹn, là một chi tiết quan trọng trang trí trên bộ mái các kiến trúc thời Lý, Trần. Đầu rồng như đang “bay”, bờm và mào hướng ra sau, miệng ngậm ngọc báu, răng nanh dài và uốn cong cùng theo mào lửa, lưỡi nhỏ dài bao ngoài ngọc báu và cũng uốn theo mào lửa rất sinh động…
Bộ thành bậc điện Kính Thiên thời Lê sơ được đặt trên lối lên xuống chính gồm hai thành bậc chạm rồng ở giữa và hai thành bậc chạm mây hóa rồng ở hai bên đã trở thành Bảo vật quốc gia từ năm 2020. Rồng đá thành bậc thời Lê sơ tạo hình vạm vỡ, đầu rồng ngẩng cao oai vệ, bảy khúc thân uốn lượn mềm mại như sóng từ trên xuống.
Điện Kính Thiên xưa còn giữ lại được một bộ thành bậc thứ hai tạo tác thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17-18) trên lối đi phía sau, bên trái. Bộ thành bậc này được công nhận Bảo vật quốc gia tháng 1/2023. Đôi rồng trong bộ thành bậc thời Lê Trung Hưng cũng “đi” từ trên xuống với dáng cứng cáp, thân rồng vẫn uốn bảy khúc, có nhiều mào lửa. Dưới thân rồng chạm các hình cá hóa long, chim phượng, hoa sen trên nền các cụm vân mây.
Hình rồng còn là họa tiết trang trí chủ yếu trên các Bảo vật quốc gia khác trong Hoàng thành. Hai chiếc bát sứ ngự dụng thời Lê sơ có men trắng, rất nhẹ và thấu quang đã được công nhận Bảo vật quốc gia năm 2021. Trong lòng bát “in khuôn” nổi hai hình rồng chân có năm móng sắc nhọn nối đuôi (đuổi) nhau theo chiều kim đồng hồ. Bộ sưu tập gốm ngự dụng thời Lê sơ được công nhận Bảo vật quốc gia năm 2023, gồm những bát, đĩa gốm men lam với kỹ thuật chế tác gốm thượng thừa, nhiệt độ nung cao.
Vì là đồ dùng của vua cho nên trên các đồ gốm sứ, đồ án trang trí chủ đạo là hình rồng, hoa văn xung quanh tỉ mỉ và tinh xảo, lòng viết chữ “Kính” (敬) hoặc in nổi chữ “Quan” (官) - là cách xác định rõ nhãn hiệu của những xưởng gốm chỉ chế tác sản phẩm phục vụ hoàng cung. Hình rồng năm móng được trang trí các đồ gốm đó là biểu tượng cho quyền lực tối cao của nhà vua, khẳng định chắc chắn đây là đồ ngự dụng.
PGS Bùi Minh Trí, Viện Nghiên cứu Kinh thành, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
Tại Hoàng thành Thăng Long, còn nhiều khối tượng đất nung trang trí hình rồng trang trí trên bộ mái các kiến trúc thời Lý, Trần. Trong hoàng cung triều Nguyễn, hình tượng rồng còn lại rất nhiều trong các công trình kiến trúc, hiện vật… như ở các điện, miếu trong Tử Cấm thành, lăng các vua, nóc mái Ngọ Môn, cổng chính của Hoàng thành và điện Thái Hòa…, rồi các hiện vật bằng vàng, bạc, đồng, trang phục, đồ ngự dụng…
Bên ngoài Hoàng cung, hình rồng được gắn lên một loạt Bảo vật quốc gia khác: Trên cột đá chùa Dạm (thành phố Bắc Ninh), trên bia Sùng Thiện Diên Linh (Hà Nam), trên bệ tượng Adiđà ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), trên quai chuông thời Trần ở chùa Vân Bàn (Hải Phòng), trên bia Vĩnh Lăng ở Lam Kinh (Thanh Hóa), ở sập đá ở đền vua Đinh (Hoa Lư, Ninh Bình)…
Buớc ra khỏi cung đình, trong đời sống dân gian, từ hình ảnh xa xăm của tổ tiên trong huyền thoại Lạc Long Quân-Âu Cơ, mỗi người Việt ai cũng tự hào nhận mình là con rồng-cháu tiên. Rồng đi vào truyền thuyết dân gian được bà, được mẹ kể trong lúc con cháu lớn lên.
Trong tâm thức, trong văn học, nghệ thuật, trong các công trình kiến trúc và tác phẩm mỹ thuật, rồng là motif taọ hình, trang trí xuất hiện trên rất nhiều các công trình kiến trúc từ thành thị đến thôn quê, các vật dụng của cộng đồng, trong mỗi gia đình và cá nhân… Rồng được ca tụng, ngâm vịnh, so sánh, ví von trong nhiều thơ văn của các thi sĩ Nho gia. Hình tượng rồng trong dân gian cũng phản ánh sự biến đổi, phát triển nhiều mặt về tín ngưỡng và văn hóa, về cảm quan thẩm mỹ, trình độ tạo tác của người Việt trên các công trình, trong những tác phẩm của các nghệ nhân.
Nếp nghĩ, cuộc sống của cư dân Việt gắn liền với cây lúa nước, gắn liền với mưa nắng ở vùng châu thổ mà họ định cư. Với họ, trong sự vận hành của vũ trụ, rồng là “’gạch nối” giữa trời và đất, giữa cõi trên thượng giới với con người sống trên mặt đất.
Rồng mang đến điềm lành trong sản xuất nông nghiệp. “Tính” được tôn thờ của rồng là “giáng” (mang lại) những điều phúc, lành cho con người đang đau đáu cầu mong, ví như mưa rơi xuống ruộng hạn...
Rồng gắn liền với mây, sinh ra sấm chớp và mưa là những điều tối cần thiết để có hạnh phúc sinh sôi và mùa màng bội thu cho cư dân trồng lúa nước.
Trong những lễ hội của mình, người Hoa thích múa lân còn người Việt thường múa rồng. Đầu rồng được tạo tác rất oai dũng, thân rồng lại vô cùng mềm mại uốn lượn trong tiếng trống của những vũ điệu hào hứng mang lời ước nguyện của cả cộng đồng cho mưa thuận gió hòa, cho nhân khang vật thịnh.
Hình ảnh ví von (như) cá gặp nước - (như) rồng gặp mây miêu tả sự kỳ phùng tương hợp, sự mãn nguyện hài hòa của những điều kiện thuận lợi để phát triển đã được hội tụ đầy đủ…
Hình tượng Lý ngư hóa long - Cá chép vượt vũ môn để hóa rồng, từ sự tích truyền thuyết đi vào cuộc sống trở thành biểu tượng hướng đạo cho sự quyết tâm đạt được thành công. Cá chép hóa Rồng là thành ngữ ẩn dụ chỉ quá trình một người hiển đạt qua đường thi cử. Vượt khó để học hành và đạt đến đích công thành danh toại luôn là mơ ước của các sĩ tử. Đó cũng còn là lời chúc gửi gắm của người vợ hiền đảm, của gia đình, của làng xóm mong Nho sinh đạt vinh quang sau nhiều năm đèn sách.
Và rồng còn hiển hiện thân thiện cả với đàn trẻ thơ ngây. Rồng hóa thân gần gũi trong trò chơi dân gian của trẻ, nắm đuôi áo nhau, cùng hát đồng dao Rồng rắn lên mây:
“Rồng rắn lên mây
Có cây xúc xắc
Có nhà hiển minh
Hỏi thăm thầy thuốc
Có nhà hay không….”
Sau đó là những tràng cười bé thơ rộn rã. Tiếng cười đó vẫn vọng từ ký ức của các thế hệ trước đến hôm nay…