Các nhà nghiên cứu đánh giá, sự kiện vua Bảo Đại thoái vị, chính quyền thuộc về nhân dân đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự kiện này cũng cho thấy chính sách Đại đoàn kết dân tộc với những ý nghĩa lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngọ Môn mùa thu năm 1945 trong tư liệu lịch sử

Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Huế đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, chấm dứt thời đại quân chủ đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước ta và chuyển sang chế độ dân chủ cộng hòa. Đánh dấu sự kiện lịch sử ấy là việc vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho Phái đoàn đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do nhà sử học Trần Huy Liệu dẫn đầu.

Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, vào chiều 30/8/1945, trên lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn, trước hàng chục nghìn nhân dân Huế dự mít tinh tại quảng trường, vua Bảo Đại đã trịnh trọng đọc Chiếu thoái vị. Trong hồi ký Trần Huy Liệu viết, đọc xong tờ chiếu, vua Bảo Đại “giơ hai tay dâng lên chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn vàng hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận hai vật tượng trưng của chế độ phong kiến. Cùng với ấn kiếm còn có một chiếc túi gấm đựng một bộ quân cờ bằng ngọc và những thứ quý giá khác”.

Trước đó, Chiếu thoái vị chính thức chấm dứt chế độ quân chủ ở Việt Nam, được vua Bảo Đại viết vào ngày 25/8/1945 tại điện Kiến Trung. Ngày 29/8, khi làm việc với phái đoàn đại diện Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Hà Nội vào, vua Bảo Đại đã trao tờ chiếu cho vị trưởng đoàn là nhà Sử học Trần Huy Liệu. Ông Trần Huy Liệu đã đạt được thỏa thuận với vua Bảo Đại là sẽ tổ chức một buổi lễ để nhà vua công khai tuyên bố trước quốc dân đồng bào, để mọi người đều được biết sự cảm hóa của Cách mạng tháng Tám, và nhà vua đã tự nguyện thoái vị, trao quốc ấn và quốc kiếm, bảo vật tượng trưng cho quyền lực của vương triều.

Tư liệu của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia mô tả: Mới 7 giờ sáng mà cả bãi đất rộng sau cột cờ thành nội đã chật cứng người với cả một rừng cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ. Các đoàn người tấp nập đổ về từ các huyện Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền và thị xã Huế. Từ cụ già cho đến các em bé thiếu niên ai cũng cơm đùm, cơm gói, tay xách nách mang, hân hoan trong bộ quần áo đẹp nhất của mình, cờ đỏ sao vàng trên tay đứng chờ giờ phút lịch sử - nhà vua thoái vị.

Lúc đó, Khởi nghĩa Tháng 8 đã thắng lợi trong phạm vi cả nước. Theo sự chuẩn bị của Ban tổ chức buổi lễ sẽ được tiến hành vào buổi chiều, nhưng do quá náo nức, nhân dân đua nhau về đây từ sáng sớm. Tới hơn 4 giờ chiều, phái đoàn thay mặt Chính phủ lâm thời mới ra mắt đồng bào Huế trên lầu Ngũ Phụng. Đoàn gồm các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận.

Hình ảnh đoàn tế Nam Giao đi ra cửa thành qua cổng Ngọ Môn (Huế). Ảnh của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Văn phòng Bảo Đại.

Hình ảnh đoàn tế Nam Giao đi ra cửa thành qua cổng Ngọ Môn (Huế). Ảnh của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Văn phòng Bảo Đại.

Bảo Đại từ trong điện Kiến Trung ra, đi theo có ông Phạm Khắc Hòe, Đồng lý Văn phòng của nhà vua, và Hoàng Tùng Đệ Vĩnh Cẩn (người hoàng thân bình nhật Bảo Đại đi đâu đều được đi theo cùng).

Chiều hôm ấy nắng đẹp, nền trời trong xanh. Ở giữa lầu Ngọ Môn đặt một chiếc micrô. Phái đoàn thay mặt Chính phủ Lâm thời đứng sang một bên, Bảo Đại và ông Phạm Khắc Hòe cùng hoàng thân Vĩnh Cẩn đứng một bên. Phía đằng sau, hai bên tả hữu có mấy vị quan trong triều chít khăn đóng đen, mặc áo dài đen, tay chắp trước bụng, đầu cúi nghiêng về phía trước, vẻ mặt buồn rầu. Bảo vệ xung quanh trên tầng lầu là đoàn chiến sĩ thanh niên tiền tuyến. Bảo Đại mặc áo đại triều - áo bào và khăn chít thêu rồng, chân đi giầy cườm. Trông ngài hôm đó khác hẳn với những ngày còn mồ ma thực dân Pháp, trước đảo chính Nhật, thường ngồi trên xe song mã bên cạnh viên đại úy sĩ quan tùy tùng.

Đúng 4 giờ chiều, buổi lễ bắt đầu, Bảo Đại xin phép Đoàn ta cho nhìn thấy lần cuối cùng lá cờ vàng của triều Nguyễn. Ta chấp nhận. Rồi ông bắt đầu đọc chiếu thoái vị trước micrô. Cầm tờ tuyên cáo, tay ông run run, giọng đọc ngập ngừng từng đoạn.

Bảo Đại đọc xong, không hề có một tiếng vỗ tay, mặc dù có mấy vạn đồng bào đứng đông nghịt trên khoảng đất trải dài trước cửa Ngọ Môn. Bảo Đại lần lượt bưng hai tay, trao ấn kiếm của hoàng triều cho phái đoàn chính phủ lâm thời.

Tiếp đó, ông Trần Huy Liệu, Trưởng phái đoàn đọc lời tuyên bố của Chính phủ lâm thời. Nội dung bản tuyên bố ngắn gọn nhưng hùng hồn. Lời ông vừa dứt, một loạt súng thần công ở phía hai bên cột cờ vang lên, khói bay nghi ngút đầu miệng súng. Lá cờ vàng tượng trưng cho vương triều nhà Nguyễn được hạ xuống rất nhanh, nói cho dân chúng biết chế độ phong kiến hàng nghìn năm sụp đổ tan tành. Lá cờ đỏ sao vàng to, rộng từ từ kéo lên, phần phật tung bay trong gió lộng, trong tiếng vỗ tay và hoan hô của gần 6 vạn đồng bào: "Việt Nam độc lập muôn năm", "Chính phủ lâm thời muôn năm".

Nhìn Bảo Đại lúc đó có vẻ buồn buồn, lúng túng, đứng trầm tư một lúc rồi mới nói với đoàn: "Bây giờ tôi đã trở thành công dân của nước Việt Nam độc lập, xin phái đoàn cho tôi một vật gì đó làm kỷ niệm". Sau một phút hội ý, ông Cù Huy Cận gỡ trên áo chiếc phù hiệu cờ đỏ sao vàng do phụ nữ Huế thêu và Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên - Huế mới tặng anh, đem gắn cho Bảo Đại, rồi ông nói to với nhân dân dự mít tinh: "Đề nghị đồng bào hoan hô công dân Vĩnh Thụy của nước Việt Nam độc lập". Đồng bào đồng thanh đáp: "Hoan hô".

Buổi lễ kết thúc. Đoàn người rầm rập tỏa về các ngả trong niềm hân hoan rạo rực trước trang sử mới của đất nước.

Cựu hoàng Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời tại lễ thoái vị ngày 30-8-1945 (Ảnh Tư liệu)

Cựu hoàng Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời tại lễ thoái vị ngày 30-8-1945 (Ảnh Tư liệu)

Hồi ký của nhà sử học Trần Huy Liệu được nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trích dẫn lại trong cuốn “Cố vấn Vĩnh Thụy”, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành như sau:

“Lúc ấy, Hồ Chủ tịch còn ở chiến khu chưa về Hà Nội. Theo sự chỉ định của Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận và tôi được cử vào phái đoàn đi Huế. Tôi làm trưởng đoàn. Tôi thay mặt cho Chính phủ lâm thời, anh Nguyễn Lương Bằng thay mặt cho Tổng bộ Mặt trận Việt Minh.

Chiều ngày 28/8/1945, phái đoàn vào đến Huế,.... sau khi nắm vững tình hình, chúng tôi bàn nhau cách xử trí đối với Bảo Đại. Bàn xong, chúng tôi thông báo cho ông Phạm Khắc Hòe biết mấy điểm phái đoàn đề ra:
1- Sau khi đến điện Kiến Trung gặp vua Bảo Đại, chúng tôi sẽ cho biết ngày làm lễ thoái vị và nghi thức, thủ tục của buổi lễ;
2- Sau khi làm lễ thoái vị, Bảo Đại sẽ phải ra khỏi Hoàng cung và chỉ được mang theo những đồ dùng riêng. Những tài sản, vật dụng trong Hoàng cung sẽ do Ủy ban nhân dân cách mạng Thừa Thiên Huế lập biên bản và bảo quản;
3- Những lăng tẩm của hoàng tộc nhà Nguyễn là công trình của nhân dân xây dựng phải là tài sản chung của Nhà nước. Họ nhà Nguyễn được đến đấy cúng bái tổ tiên, nhưng không được nhận làm của riêng.

Sau khi ra những điều kiện kể trên, chúng tôi hẹn chiều hôm ấy sẽ gặp Bảo Đại.

....Hôm ấy Bảo Đại mặc chiếc áo dài màu lam, quần lụa, đầu trần. ....Trong phòng khách, ngoài Bảo Đại và ông Phạm Khắc Hòe ngồi tiếp chúng tôi chỉ có mấy người lính “khố vàng” “hầu hạ” trà nước.

Để mở đầu tôi hỏi Bảo Đại về mấy điều kiện mà phái đoàn đề ra, có ý kiến gì không? Bảo Đại xin tuân theo cả. Sau mấy câu trao đổi ngắn, gọn, trong bầu không khí vắng lặng, chúng tôi không biết nói gì thêm. Đối tượng của chúng tôi lúc ấy là Bảo Đại càng không biết nói cái gì, tôi liền gợi ý gợi chuyện và hỏi Bảo Đại: “Những ngày ông làm vua là những ngày dân ta bị mất nước, hết Pháp đến Nhật, chắc ông cũng chẳng vui sướng gì, hơn nữa, chắc ông cũng có nhiều cái khổ tâm?”

… Ngày 30.8.1945, theo giờ đã định, năm vạn nhân dân ngoại thành Huế đã tập trung trước Ngọ Môn, cờ đỏ sao vàng rực lên trên bờ sông Hương và mặt sông Hương điểm vào những chiếc thuyền bồng bềnh giữa dòng nước xanh biếc. Xe của phái đoàn Chính phủ từ từ tiến vào cửa chính Ngọ Môn trong tiếng hoan hô vang dậy của quần chúng.

Ngọ môn kinh thành Huế

Ngọ môn kinh thành Huế

Bảo Đại chít khăn vàng, mặc áo hoàng bào đã đứng chực ở cửa. Phái đoàn bước lên Ngọ Môn, dân chúng hoan hô sôi nổi. Đến lượt vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Đọc xong, hoàng đế Bảo Đại giơ hai tay dâng lên chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn vàng hình vuông. Tôi thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận hai vật tượng trưng của chế độ phong kiến.

...Tiếp nhận ấn kiếm xong, tôi thay mặt Chính phủ đọc một bài diễn văn tuyên bố xóa bỏ chính thể quân chủ từ nghìn xưa để lại và chấm dứt ngôi vua cuối cùng của triều Nguyễn”.

Chiếu thoái vị của vua Bảo Đại

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoa, Tiến sĩ Khoa lịch sử của Trường Đại học Huế, đã có một số tài liệu đề cập đến chiếu thoái vị của vua Bảo Đại và nội dung của chiếu thoái vị lại có một đôi chỗ không giống nhau. Như tờ Việt Nam Dân quốc Công báo của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa số ra ngày 29/9/1945 gọi là “Tuyên cáo của Hoàng Đế Việt Nam thoái vị”. Còn trong cuốn “Con rồng Việt Nam Hồi ký chánh trị 1913-1987 của Bảo Đại”, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990, Bảo Đại gọi là bản tuyên ngôn thoái vị.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa cho biết, tờ Việt Nam Dân quốc Công báo của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, số 1, ngày 29/9/1945 đã đăng bản Tuyên cáo của Hoàng Đế Việt Nam thoái vị ngày 24/8/1945.

Nội dung Tuyên cáo như sau:

“Hạnh phúc của dân Việt Nam, độc lập của nước Việt Nam, muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã tuyên bố Trẫm sẵn sàng hy sinh hết tất cả mọi phương diện, và cũng vì mục đích ấy nên Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải có bổ ích cho Tổ quốc. Xét thấy điều bổ ích nhất cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22/8 vừa rồi rằng trong giờ nghiêm trọng này đoàn kết là sống mà chia rẽ là chết.

Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam, Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người lợi dụng

Cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới công lao Liệt Thánh vào sinh ra tử trong gần 400 năm để mở mang giang sơn đất nước từ Thuận Hóa tới Hà Tiên.

Mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong hai mươi năm, mới gần gụi quốc dân được mấy tháng chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ dân chủ cộng hòa.

Trong khi trao quyền Chính phủ mới, Trẫm chỉ mong ước có ba điều:

1. Đối với Tông miếu và lăng tẩm của Liệt Thánh, Chính phủ mới phải xử trí thế nào cho có sự thể;

2. Đối với các đảng phái đã từng phấn đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong Chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và tỏ rằng Chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp ở trên sự đoàn kết của toàn thể quốc dân;

3. Đối với quốc dân, Trẫm khuyên hết cả các giai cấp, các đảng phái, cho đến cả người Hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để Chính phủ dân chủ, giữ vững nền độc lập của nước, chứ đừng vì lòng quyến luyến Trẫm và hoàng gia mà sinh ra chia rẽ.

Còn về phần Trẫm, sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ Trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của Trẫm hay của Hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa.

Việt Nam độc lập muôn năm!

Dân chủ Cộng hòa muôn năm!

Khâm thử
Phụng Ngự ký: Bảo Đại”

(Nguồn: Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân)

Tuyên cáo của Hoàng Đế Việt Nam thoái vị ngày 24/8/1945

Tuyên cáo của Hoàng Đế Việt Nam thoái vị ngày 24/8/1945

Tinh thần đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Các nhà nghiên cứu cho rằng, sau lễ thoái vị của vua Bảo Đại, sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông về làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc và cái nhìn sáng suốt của Người.

Tiến sĩ Phan Tiến Dũng, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Huế cho rằng, với tinh thần đại đoàn kết toàn dân của Bác Hồ, Bác đã gọi vua Bảo Đại là công dân Vĩnh Thụy, mời ông về làm cố vấn cho Bác. Cũng từ đó, đã có nhiều người trong hoàng tộc đi theo Cách mạng, đây là yếu tố có lợi cho Cách mạng. Sau khi vua Bảo Đại thoái vị, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn sử dụng Trường Thanh niên Tiền tuyến ở Huế và các đơn vị của Cách mạng để đưa ông từ trong Huế ra Hà Nội làm cố vấn. Nhiều thành viên trong hoàng tộc đi theo Cách mạng cũng được trọng dụng. Chính điều này đã khiến cho nhân dân càng thêm tin tưởng và Đảng, vào Cách mạng.

Ngày hôm qua là quan tước, là người trong hoàng tộc, ngày hôm nay về với dân và chiến đấu cùng dân.
Tiến sĩ Phan Tiến Dũng nói

Tiến sĩ Phan Tiến Dũng cũng nhận xét, sự kiện vua Bảo Đại lên trao chiếu thoái vị thể hiện một sự sụp đổ của chế độ quân chủ, nhưng cũng thể hiện tính nhân văn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một chế độ sụp đổ nhưng không có đầu rơi máu chảy, không giống như những sự kiện cách mạng ở những nơi khác. Đây là bài học về đoàn kết rất lớn đối với đất nước, dân tộc.

Công dân Vĩnh Thụy - cựu hoàng Bảo Đại bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tà Hoàng thân Su-pha-nu-vông tại Hà Nội tháng 9/1945. (Ảnh Tư liệu)

Công dân Vĩnh Thụy - cựu hoàng Bảo Đại bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tà Hoàng thân Su-pha-nu-vông tại Hà Nội tháng 9/1945. (Ảnh Tư liệu)

Còn Tiến sĩ Nguyễn Văn Hoa (Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Huế) phân tích, trong thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám, cả nước rất khó khăn. Các thế lực chống đối trong đó có Việt quốc, Việt cách yêu cầu Bác phải cho chức cố vấn, và Bác đã nói một câu: “Chỉ có dân tôi mới làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thôi”. Điều đó cho thấy được đây là một giai đoạn tuy rất ngắn nhưng lại dồn dập xảy ra rất nhiều sự kiện, có cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trong hoàn cảnh đó, nếu không có chủ trương đại đoàn kết của Bác Hồ thì lực lượng Cách mạng của ta khó lòng vượt qua được.

Chính nhờ tinh thần đoàn kết của Bác Hồ mà chúng ta giữ được chính quyền Cách mạng, từ đó tạo được tiềm lực để sẵn sàng đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ ngay sau đó. Ngày 23/9/1945, Nam Bộ kháng chiến. Ngày 19/12/1946, Toàn quốc kháng chiến. Trong một thời gian ngắn, nhưng rõ ràng chúng ta đã chuẩn bị được tiềm lực qua lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đêm 19/12 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là nhờ vào chính sách đại đoàn kết toàn dân. Tất cả như một dòng chảy, nhờ đó mà chúng ta đã có được chiến thắng vĩ đại.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hoa nói.

Một ý nghĩa nữa của sự kiện vua Bảo Đại thoái vị ở Huế, theo nhà nghiên cứu, Tiến sĩ Phan Tiến Dũng, bên cạnh việc chấm dứt chế độ quân chủ ở trong nước, còn tạo ra bước ngoặt đối với phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều quốc gia khác.

Khi đó chúng ta là Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, nhiều nước Á, Phi, Mỹ La-tinh vẫn chưa vùng lên thoát khỏi chế độ thuộc địa. Ý nghĩa của sự kiện này là thúc đẩy phong trào độc lập dân tộc của nhiều nước. Trong bối cảnh còn khó khăn trăm bề như thế, Cách mạng Việt Nam đã chiến thắng và trở thành ngọn cờ để các quốc gia khác đi theo.
Tiến sĩ Phan Tiến Dũng nói

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cựu hoàng Bảo Đại - Cố vấn của Chính phủ lâm thời Việt Nam - dự “Ngày tiễu trừ giặc đói” 11/10/1945 (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cựu hoàng Bảo Đại - Cố vấn của Chính phủ lâm thời Việt Nam - dự “Ngày tiễu trừ giặc đói” 11/10/1945 (Ảnh tư liệu)

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng đây là sự kiện lịch sử, chính trị có ý nghĩa lớn nhất trong thời điểm bấy giờ.

Ông kể lại: “Khi tôi sang Pháp thăm bà Như Lý, con vua Hàm Nghi và thăm nơi ở cuối cùng của bà Nam Phương Hoàng hậu, có một quý tộc Pháp quen với ông Nguyễn Duy Thản, có vợ là hoàng tộc. Họ tới đón tôi và chỉ họ mới biết nơi bà Như Lý ở, dân chúng không ai biết. Trong nhà đó có hai vật phẩm quý, một trong số đó là đôi giày của bà Marie Antoinette, khi ra pháp trường làm rớt, được một người lính đi theo mang về thờ. Khi đó tôi nhớ đến bà Nam Phương Hoàng hậu, một người đã hết lòng ủng hộ Cách mạng”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nhắc lại, trong Tuần lễ vàng, bà Nam Phương đã đem hết tất cả trang sức của mình để ủng hộ. Khi bà trả hết mọi lụa là vàng ngọc, quyền uy của triều đình, trở về cung An Định sống, nghe tin Pháp trở lại gây chiến ở Nam Bộ với sự hỗ trợ của quân Anh, bà đã viết một bức thư gửi cho tất cả phụ nữ châu Âu và thế giới đấu tranh với chính phủ mình, chống lại việc Pháp trở lại làm đổ máu đồng bào Nam Bộ.

“Cuộc cách mạng của Pháp năm 1789 nổi tiếng thế giới, tan tành chết chóc, trong khi Cách mạng tháng Tám của chúng ta có sự đồng tình lớn từ nhiều tầng lớp. Từ vua, hoàng hậu những người tầng lớp cao nhất, theo học ở Pháp, ăn sung mặc sướng nhưng từ bỏ hết tất cả để trở về làm dân thường và đi theo cách mạng, đó là ý nghĩa rất lớn của tinh thần đại đoàn kết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện” – nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nói.

 

Cách mạng tháng Tám của chúng ta có sự đồng tình lớn từ nhiều tầng lớp. Từ vua, hoàng hậu những người tầng lớp cao nhất, theo học ở Pháp, ăn sung mặc sướng nhưng từ bỏ hết tất cả để trở về làm dân thường và đi theo cách mạng, đó là ý nghĩa rất lớn của tinh thần đại đoàn kết mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân

E-Magazine | Nhandan.vn
Tổ chức sản xuất: TRƯỜNG SƠN - HỒNG VÂN
Nội dung: TUYẾT LOAN, CÔNG HẬU
Tài liệu, tư liệu: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia, Tư liệu của nhà nghiên cứu NGUYỄN ĐẮC XUÂN

Trình bày: VÂN THANH