(COPY)

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀ THẮNG LỢI CỦA SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG TA*
22 giờ ngày 7/5/1954, sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, kể từ lúc tiếng súng tiến công của trận quyết chiến chiến lược vĩ đại Điện Biên Phủ bắt đầu, với một tinh thần dũng cảm phi thường, quân đội ta đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm kiên cố nhất Đông Dương của thực dân xâm lược Pháp được đế quốc Mỹ tăng cường vũ khí và phương tiện hiện đại. Lực lượng địch bị tiêu diệt trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là 16.200 tên bao gồm 2 phần 5 quân chủ lực cơ động tinh nhuệ nhất của quân đội viễn chinh Pháp trên chiến trường Bắc Bộ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân và quân đội ta đã ghi lại một trang sử vẻ vang chưa từng có trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta chống đế quốc xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn sấm sét vào âm mưu mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, đánh dấu một sự chuyển biến lớn lao trong cục diện chính trị và quân sự ở Đông Dương, góp phần quyết định vào thắng lợi to lớn ở Hội nghị Giơnevơ năm 1954, lập lại hòa bình ở Đông Dương, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta và hai nước bạn láng giềng: Campuchia và Lào.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của nhân dân ta từ Bắc chí Nam, là chiến thắng của các dân tộc ở Đông Dương, là chiến thắng của phe xã hội chủ nghĩa và là chiến thắng của tất cả các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là một đòn quyết định đánh vào vị trí của đế quốc Pháp đã thống trị bán đảo Đông Dương gần một thế kỷ mà còn là một đòn đánh mạnh làm rung chuyển cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành tiếng kèn chiến thắng vang dội khắp trái đất, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đứng lên giành độc lập, tự do.
Chiến thắng Điện Biên Phủ càng chứng tỏ “Dân tộc ta là dân tộc anh hùng, Quân đội ta là quân đội anh hùng". Được Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhân dân và quân đội ta có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào. Cuộc thử lửa này đã đánh dấu một bước trưởng thành mới của quân đội ta.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của Đảng ta trong việc vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh và cách mạng, về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang trong hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến chống đế quốc xâm lược.
Kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại một số bài học nhằm thấu suốt thêm đường lối cách mạng, đường lối đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta.
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀ THẮNG LỢI CỦA ĐƯỜNG LỐI BẠO LỰC CÁCH MẠNG Ở MỘT NƯỚC THUỘC ĐỊA CHỐNG ĐẾ QUỐC XÂM LƯỢC
Chiến thắng Điện Biên Phủ không phải chỉ là một cuộc đọ sức giữa ta và địch trong hai tháng ở mặt trận này mà là đỉnh cao nhất của cuộc kháng chiến toàn dân của chúng ta, là kết cục của một quá trình đấu tranh cách mạng, đấu tranh vũ trang lâu dài do Đảng ta lãnh đạo.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chiến thắng Điện Biên Phủ một lần nữa chứng tỏ rằng nhân dân ta nhất thiết phải dùng bạo lực cách mạng để đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược. Đối với nhiều dân tộc bị áp bức khác trên thế giới, chân lý đó cũng đã quá rõ ràng. Nhìn lại tình hình nước ta trong thời kỳ đế quốc Pháp thống trị, nhân dân ta không có một tấc sắt trong tay, còn đế quốc Pháp và phát xít Nhật thì có cả một bộ máy thống trị với lực lượng vũ trang mạnh mẽ, hay nhìn lại tình hình nước ta hồi đầu kháng chiến, chúng ta chỉ có lực lượng vũ trang cách mạng nhỏ bé với vũ khí thô sơ, còn kẻ địch thì có cả một quân đội nhà nghề, giàu kinh nghiệm, trang bị hoàn toàn hiện đại, mấy ai lúc đó tưởng tượng được rằng ta có thể làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Chỉ có Đảng ta, do nắm vững tư tưởng về cách mạng bạo lực là nền móng của toàn bộ học thuyết của Mác và Ăngghen[1] nên ngay từ lúc ra đời đã sớm vạch ra con đường cho nhân dân ta đi tới thắng lợi vẻ vang. Những chiến sĩ cách mạng của Đảng ta, trong đó có bao nhiêu đồng chí trước khi bị đưa lên máy chém hoặc đưa ra trường bắn của bọn đế quốc, vẫn một lòng tin tưởng vững chắc ở con đường tất thắng của mình, tức con đường vận động quần chúng đứng lên làm cách mạng, dùng bạo lực cách mạng chôn vùi chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phong kiến.
Trải qua mấy chục năm đấu tranh, Đảng ta, tùy tình hình từng thời kỳ, vận dụng nhiều hình thức đấu tranh cách mạng khác nhau rất linh hoạt từ thấp đến cao, lúc chính trị, lúc vũ trang, lúc vừa chính trị vừa vũ trang, kết hợp công tác công khai và bí mật để phát triển lực lượng. Song luôn nhớ lời dạy của Lênin “Không có cách mạng bạo lực thì không thể thay Nhà nước tư sản bằng Nhà nước vô sản được” [2], Đảng ta không bao giờ đi chệch con đường mácxít - lêninnít chân chính là con đường bạo lực cách mạng.
Trong Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ của mình là phải "lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông"[3]. Đảng ta đã sớm đặt vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, việc xây dựng quân đội công nông được coi là một nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng. Hội nghị Trung ương Đảng họp vào tháng 10 năm 1930, khi bàn về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, lại quyết định "phải tổ chức bộ quân sự của Đảng để:
- Làm cho đảng viên được quân sự huấn luyện.
- Giúp cho công nông hội tổ chức đội tự vệ" [4].

Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến
Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến

Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến
Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến
Từ những năm 1930-1931, Đảng ta đã nghiêm khắc phê phán khuynh hướng "sợ đấu tranh kịch liệt", chủ nghĩa "bất bạo động", "hòa bình đấu tranh" của một số đảng viên.
Bước sang thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ hai, lợi dụng sự suy yếu của quân thù. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa vũ trang từng phần, xây dựng căn cứ cách mạng, phát triển lực lượng cả ở thành thị và nông thôn, và xúc tiến việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tích cực chuẩn bị sẵn sàng nắm lấy thời cơ giành chính quyền trong cả nước. Trong thông cáo ngày 21 - 12 - 1941 của Trung ương Đảng gửi các cấp bộ Đảng có ghi rõ: '"Chính phủ lâm thời cách mạng của địa phương phải thi hành ngay những điều cốt yếu trong chương trình Việt Minh, tổ chức nhân dân cách mạng quân, tiếp tục chiến đấu đánh đuổi Pháp, Nhật... Hiện nay có các bộ đội hằng ngày chiến đấu tiễu trừ Việt gian và chống Pháp. Nhật. Đó là đội quân Bắc Sơn, Đình Cả. Tràng Xá (Bắc Kỳ) rút vào rừng sau cuộc khởi nghĩa thất bại cuối năm ngoái. Các đảng bộ phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh”[5].
Tháng 8 - 1945, khi quân đội Xôviết giành được thắng lợi quyết định ở mặt trận phía đông, chủ nghĩa quân phiệt Nhật bị tan rã và phải đầu hàng Đồng minh không điều kiện, bọn thống trị Nhật và tay sai của chúng hoang mang dao động đến cực độ, Đảng ta nắm vững thời cơ đó, lãnh đạo các lực lượng vũ trang cách mạng và toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong điều kiện khách quan thuận lợi, nhưng nếu chúng ta không có sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, không có một đường lối cách mạng đúng đắn, không có sự chuẩn bị từ trước, không tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt kể cả lực lượng vũ trang, không tập dượt cho quần chúng đấu tranh ngót hai chục năm ròng thì không thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi, và cách mạng cũng chưa thể thành công được. Một trong những kinh nghiệm lớn mà Đại hội lần thứ III của Đảng đã nêu lên là, Đảng ta đã giành chính quyền một cách thắng lợi bằng cách biết khéo léo kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị. Như vậy, Cách mạng Tháng Tám rõ ràng là cách mạng bạo lực. Trước Cách mạng Tháng Tám, chúng ta đã dùng lực lượng chính trị và lực lượng quân sự mở rộng căn cứ của cách mạng, lập khu giải phóng, nhiều lần đánh nhau với quân đội Nhật, làm cho thanh thế cách mạng ngày càng rộng lớn, tinh thần bọn thống trị ngày càng sa sút. Đến khởi nghĩa Tháng Tám, Quân giải phóng cùng với những đội tự vệ Cứu quốc và lực lượng chính trị của quần chúng có tổ chức, bằng mọi thứ vũ khí có thể kiếm được, đã cùng với đông đảo nhân dân nhất tề nổi dậy giành chính quyền.
Tiếp theo Cách mạng Tháng Tám, chúng ta phải trải qua 8-9 năm kháng chiến mới đi tới thắng lợi Điện Biên Phủ. Cuộc kháng chiến lâu dài chính là tiếp tục sự nghiệp của Cách mạng Tháng Tám.
Rõ ràng, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thắng lợi Điện Biên Phủ chỉ cho chúng ta thấy rằng một dân tộc bị đế quốc thống trị muốn giành độc lập tự do thật sự thì không có con đường nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bạo lực phản cách mạng của bọn đế quốc, lật đổ ách thống trị của chúng và giành chính quyền về tay mình. Đó là quy luật phổ biến để giành thắng lợi triệt để mà chúng ta rút ra từ kinh nghiệm của dân tộc ta và kinh nghiệm của nhiều dân tộc bị áp bức khác trên thế giới.
Hình thức cơ bản của bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sự kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Lực lượng cách mạng là lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang luôn luôn kết hợp chặt chẽ với nhau tiến công địch. Tùy tình hình cụ thể của ta và địch ở mỗi lúc, mỗi nơi mà cả hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đều được sử dụng thật đúng đắn và phát huy được tác dụng cao nhất. Trong quá trình đấu tranh cách mạng, khi cần thiết, chúng ta lại biết khéo léo kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, nhưng chúng ta luôn luôn nắm vững đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự là yếu tố quyết định giành thắng lợi. Chúng ta không bao giờ có ảo tưởng ở thiện chí của bọn đế quốc. Sự phản bội của chính phủ tư sản Pháp đối với Hiệp định ngày 6 - 3 - 1946 và Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946 mà chúng đã ký với Chính phủ ta đã chứng minh rõ bản chất ngoan cố, xảo quyệt của chúng. Năm 1954, sở dĩ thực dân Pháp phải thật sự thương lượng với ta ở Hội nghị Giơnevơ vì chúng là kẻ chiến bại, còn ta là người chiến thắng. Chúng ta chưa thể có thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ nếu như chúng ta chưa có thắng lợi to lớn trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chưa có chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Kết quả đạt được ở Hội nghị Giơnevơ là kết quả của một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài và anh dũng của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo.
Cuộc đấu tranh vũ trang của chúng ta tiến hành trong hoàn cảnh của một nước thuộc địa đất không rộng, người không đông. Trước khi cách mạng Trung Quốc thành công, nước ta ở giữa vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, địa thế lại hẹp và dài, dễ bị chia cắt, chúng ta có muôn vàn khó khăn phải vượt qua. Song nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đem tinh thần dũng cảm khắc phục mọi khó khăn, để đi từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn.
Trong quá trình đấu tranh cách mạng, không phải lúc nào nhân dân ta cũng giành được thắng lợi, mà cũng có khi có trận chúng ta không thắng, thậm chí còn thất bại. Song những thất bại ấy chỉ là cục bộ, tạm thời và qua đó chúng ta rút ra được những bài học xương máu để tiến lên giành thắng lợi, để có chiến thắng Điện Biên Phủ.
Nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của kháng chiến lâu dài, đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng ta.
Nắm vững đặc điểm của nước ta trước Cách mạng Tháng Tám là một nước thuộc địa nửa phong kiến, dựa trên cơ sở phân tích về mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn, đã vận động được đông đảo nhân dân tiến hành cách mạng. Đảng ta đã thừa kế và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, truyền thống quật cường bất khuất, đoàn kết chống ngoại xâm của dân tộc.
Để đánh đuổi bọn đế quốc cướp nước, Đảng ta ngay từ khi mới ra đời đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, lập mặt trận thống nhất chống đế quốc trên cơ sở liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Mặt trận ấy đã tập hợp được các giai cấp cách mạng, các đảng phái dân chủ, các dân tộc anh em trên đất nước ta, các đoàn thể chính trị và tôn giáo yêu nước và các nhân sĩ tiến bộ để cùng nhau chống ngoại xâm, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Khẩu hiệu “độc lập, tự do” đã động viên được toàn dân quyết tâm hy sinh chiến đấu giết giặc, cứu nước. Đảng ta luôn luôn nắm vững đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, kết hợp chặt chẽ và đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến; do đó đã động viên được toàn dân, mà lớn nhất là lực lượng nông dân, mang sức mạnh phi thường của mình ra đánh bại kẻ thủ xâm lược.
Về vấn đề nông dân, Đảng ta nhận thức sâu sắc những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin vĩ đại về vai trò của liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, và luận điểm nổi tiếng của Xtalin: vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân. Vì vậy, ngay từ bàn cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng ta đã đề ra khẩu hiệu ruộng đất cho dân cày. Và trong quá trình cách mạng nhất là sau Cách mạng Tháng Tám cũng như trong thời kỳ kháng chiến, chúng ta đã giải quyết từng bước vấn đề ruộng đất cho nông dân. Đến năm 1953-1954, Đảng ta chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến ở nước ta, thực hiện quyền sở hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện người cày có ruộng. Nhờ đó khí thế cách mạng của hàng triệu nông dân được phát động mạnh mẽ, liên minh công nông được thật sự củng cố, do đó mọi mặt kháng chiến đều được đẩy mạnh. Nông dân ta đã dốc toàn lực ra phục vụ cho tiền tuyến, không từ một khó khăn gian khổ, một hy sinh nào. Trên chiến trường, những chiến sĩ Quân đội nhân dân mà tuyệt đại đa số là nông dân mặc áo lính, cầm súng đánh giặc dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, qua cuộc học tập về chính sách cải cách ruộng đất, được nâng cao giác ngộ giai cấp, càng thêm phấn khởi, quyết tâm chiến đấu, không tiếc xương máu để giành toàn thắng cho chiến dịch.
Rõ ràng, thắng lợi của Điện Biên Phủ đã được chuẩn bị ngay từ khi tiến hành cuộc phát động cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Thắng lợi của Điện Biên Phủ cũng là thắng lợi của chính sách cải cách ruộng đất. Thắng lợi của Điện Biên Phủ là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng ta.

Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh
Bộ chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀ THẮNG LỢI CỦA ĐƯỜNG LỐI
CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân ta, các nhà lý luận quân sự tư sản thi nhau tìm nguyên nhân thắng lợi của ta, thất bại của địch. Nhưng họ không thể nào hiểu nổi vì chiến thắng Điện Biên Phủ của ta là thắng lợi của chiến tranh nhân dân, của đường lối chiến tranh đúng đắn của Đảng ta.
Chiến tranh nhân dân là chiến tranh chính nghĩa do đông đảo nhân dân tiến hành. Trong thời đại ngày nay, đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một cuộc chiến tranh nhân dân thật sự và triệt để phải là cuộc chiến tranh do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo, thực hiện được liên minh công nông, tiến hành chiến đấu chống xâm lược và lật đổ ách thống trị của đế quốc và bè lũ tay sai.
Chiến tranh nhân dân phải mang tính chất toàn dân, toàn diện. Chiến tranh nhân dân phải do toàn dân tham gia. Không phải chỉ có quân đội đánh giặc, còn nhân dân chỉ đóng vai trò thụ động, ủng hộ và làm hậu thuẫn cho quân đội, mà mọi người dân đều đánh giặc bằng mọi phương tiện vũ khí có trong tay. Trong cuộc kháng chiến lâu dài của ta, khẩu hiệu mỗi người dân là một người lính, mỗi thôn xã là một pháo đài, mỗi chi bộ đảng là một bộ tham mưu đã trở thành hành động thực tiễn giết giặc, cứu nước hằng ngày của toàn dân ta từ Bắc chí Nam, từ vùng tự do đến vùng tạm bị chiếm.
Dựa trên tinh thần kiên quyết cách mạng của mình, nhân dân và lực lượng vũ trang đã vận động mọi hình thức tác chiến từ thấp đến cao, từ đánh du kích nhỏ với vũ khí thô sơ tiến lên đánh du kích lớn với vũ khí được cải tiến hơn và vũ khí hiện đại, từ tác chiến với đơn vị nhỏ phân tán lên tác chiến với đơn vị lớn hơn, với các binh đoàn chủ lực tập trung. Chiến tranh nhân dân không phải chỉ là đánh du kích phân tán, đánh bằng vũ khí thô sơ mà còn phải tiến lên các hình thức tác chiến tập trung từ thấp đến cao, phải kết hợp chặt chẽ các hình thức đó, giữa đánh tập trung và đánh du kích. Có như vậy mới tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, mở rộng được cơ sở kháng chiến, giải phóng được từng bước đất đai của Tổ quốc, đưa kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là đỉnh cao nhất của cuộc chiến tranh nhân dân chống đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Trong thời gian tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, khẩu hiệu toàn dân vũ trang, toàn dân đánh giặc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng ta nêu ra trong lời kêu gọi của Người ngay lúc bắt đầu kháng chiến: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”[VI] đã được thực hiện với một quyết tâm chưa từng thấy. Bước vào Đông Xuân 1953-1954, trên khắp các chiến trường ở Đông Dương, đâu đâu quân địch cũng bị giáng những đòn nặng nề. Bằng những đòn lớn ở những hướng chiến lược quan trọng: Tây Bắc, Tây Nguyên... bộ đội chủ lực phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương, dân quân du kích và ở Lào, bộ đội Tình nguyện của ta phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân Lào, đã xé khối cơ động chiến lược của giặc Pháp thành nhiều mảng bị cô lập, buộc địch phải cơ động chống đỡ khắp nơi. Chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ, sâu rộng khắp các vùng sau lưng địch, ở một số các thành thị, hoạt động du kích và hoạt động cách mạng khác cũng được đẩy mạnh. Trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều cứ điểm kiên cố của địch, tập kích sân bay Cát Bi, sân bay Gia Lâm phá hủy 78 máy bay địch, cắt đứt đường số 5. Ở Nam Bộ, chiến tranh du kích đã tiêu diệt và bức rút trên 1.000 đồn bốt của địch, phá nhiều kho bom, đánh chìm nhiều tàu chiến của địch, ở Bình Trị Thiên, ở cực Nam Trung Bộ, quân và dân ta cũng tích cực đánh địch, mở rộng căn cứ du kích, và thu được nhiều thắng lợi. Trên các chiến trường cả nước, công tác địch vận phối hợp với tác chiến làm tan rã quân đội địch, nhất là quân ngụy, được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Chúng ta lại kết hợp chặt chẽ giữa tấn công quân sự với khởi nghĩa của đông đảo nhân dân trong các vùng địch tạm chiếm, nổi dậy phá tề trừ gian, diệt ác ôn, bức địch rút các đồn bốt, giành chính quyền về tay mình, làm cho địch càng thêm lúng túng, bị động và thất bại nặng nề. Vì thế, trong Đông Xuân 1953- 1954, trên toàn chiến trường Đông Dương, 2 phần 3 lực lượng cơ động mạnh của địch buộc phải phân tán để đối phó với chiến tranh du kích. Chúng không thể cưỡng lại quy luật của chiến tranh xâm lược là mâu thuẫn giữa tập trung lực lượng để đối phó với chủ lực của ta và phân tán lực lượng để chiếm giữ đất đai, đối phó với phong trào đấu tranh của quần chúng. Mâu thuẫn đó ngày càng trở nên sâu sắc theo sự phát triển của cả cuộc kháng chiến toàn dân của chúng ta. Cũng chính vì thế mà bộ đội chủ lực của ta có thể tập trung binh lực đầy đủ tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của địch ở Điện Biên Phủ, mặc dù lúc bấy giờ so với bộ đội tập trung của ta, kẻ địch vẫn giữ ưu thế về số quân và trang bị vật chất, kỹ thuật.
Chiến dịch Điện Biên Phủ còn là một đỉnh cao của sự chi viện về mọi mặt của hậu phương đối với tiền tuyến dưới khẩu hiệu “Tất cả để chiến thắng”. Trong suốt 8 năm kháng chiến, nhân dân ta đã tích cực phục vụ tiền tuyến nhưng chưa bao giờ nhân dân ta lại góp sức người và của cải nhiều như trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Các hội đồng ủng hộ tiền tuyến được thành lập khắp nơi để chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ. Cả một hậu phương hừng hực lửa đấu tranh đánh đổ giai cấp địa chủ, tuôn người tuôn của ra tiền tuyến để tiêu diệt đế quốc xâm lược. Cả vùng tự do và vùng tạm bị chiếm, nhân dân ta đã góp 261.500 dân công từ hậu phương đến tiền tuyến, tính thành 3.130.000 ngày công và đã góp 27.400 tấn gạo. Ngay đồng bào Tây Bắc mới được giải phóng trong chiến dịch này cũng đã góp 7.300 tấn gạo. Hàng đoàn dân công, thanh niên xung phong, ngày đêm trèo đèo lội suối, mặc máy bay địch, mặc bom nổ chậm mặc bao nhiêu nguy hiểm khác, dùng sức người chuyển một số lượng lương thực, đạn dược rất lớn cho bộ đội chiến đấu. Lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ còn ghi lại những thành tích, những gương hy sinh dũng cảm của anh chị em dân công tiền tuyến bên cạnh những gương hy sinh dũng cảm của bộ đội. Chính sức mạnh tinh thần và vật chất, sự chi viện không điều kiện của nhân dân, nhất là của công nông được Đảng động viên, tổ chức, lãnh đạo là một yếu tố quyết định khiến cho quân và dân ta khắc phục được những khó khăn về vận chuyển, tiếp tế tưởng chừng như không thể nào vượt qua và đã chiến thắng oanh liệt. Không có sự đóng góp sức người và của cải to lớn ấy của nhân dân, không thể có chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.

Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo
Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo
Rõ ràng, chiến dịch Điện Biên Phủ, một chiến dịch quy mô rộng lớn, diễn ra trong một thời gian dài, tấn công quân địch tập trung đông nhất, sử dụng lực lượng, phương tiện, vũ khí kỹ thuật lớn nhất và đã tiêu diệt gọn một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch bằng hình thức đánh công kiên có tính chất trận địa đã thể hiện rõ rệt tính chất nhân dân của cuộc chiến tranh cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Nó là đỉnh cao nhất của cuộc kháng chiến toàn dân chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ và nói chung chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 là kết quả và là một điển hình thành công nhất của sự chỉ đạo chiến tranh nhân dân của Đảng ta và về sự phối hợp giữa ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích; về sự phối hợp giữa đánh tập trung và đánh du kích, giữa chiến trường chính diện và chiến trường sau lưng địch, giữa chiến trường chính và chiến trường phối hợp. Con số 112.000 tên địch (bao gồm cả 16.200 tên ở Điện Biên Phủ thuộc các đơn vị tinh nhuệ nhất của địch) bị tiêu diệt trên các chiến trường cả nước trong Đông Xuân 1953-1954 đủ nói lên điều ấy.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã nói lên vai trò vô cùng quan trọng của bộ đội chủ lực. Đi theo sự phát triển của kháng chiến, trên cơ sở toàn dân vũ trang, ba thứ quân: dân quân du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực của ta đều lớn mạnh lên từng bước. Chúng ta đã dần dần xây dựng được bộ đội chủ lực ngày càng trưởng thành, càng đánh càng mạnh. Bộ đội chủ lực là nòng cốt của các lực lượng vũ trang cách mạng, có tác dụng quyết định trong việc tiêu diệt sinh lực chủ yếu của địch. Có bộ đội chủ lực mạnh mới tạo nên những quả đấm mạnh đánh vào lực lượng tinh nhuệ của địch, làm chuyển biến được cục diện chiến tranh. Có bộ đội chủ lực mạnh mới phân tán được lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho chiến tranh du kích phát triển. Có bộ đội chủ lực mạnh mới tiêu diệt được hoàn toàn quân địch.
Đồng thời, chiến dịch Điện Biên Phủ cũng khẳng định địa vị chiến lược của lực lượng quân du kích, của chiến tranh du kích trong toàn bộ cuộc chiến tranh nhân dân. Nếu không có chiến tranh du kích ngày càng phát triển thì không thể có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến trường dưới sự chỉ đạo thống nhất, mà không có sự phối hợp tích cực giữa các chiến trường thì lực lượng cơ động mạnh của địch không bị phân tán, quân địch ở Điện Biên Phủ không bị cô lập, bao vây và tiêu diệt. Không có lực lượng dân quân du kích lớn mạnh, không có bộ đội địa phương phát triển thì không thể phát động được chiến tranh du kích rộng rãi trong phạm vi cả nước và cũng không thể xây dựng được các binh đoàn chủ lực tập trung để giành thắng lợi to lớn trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Thực tiễn chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 khẳng định đường lối xây dựng ba thứ quân trong lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích là hoàn toàn đúng đắn. Ba lực lượng ấy dựa vào nhau, cùng xây dựng, cùng phát triển, kết hợp chặt chẽ với nhau dưới sự chỉ đạo của phương châm chiến lược, phương châm tác chiến thống nhất thích hợp với yêu cầu của từng thời kỳ khác nhau của toàn bộ cuộc chiến tranh.
Những bài học có tính nguyên tắc của chiến tranh nhân dân biểu hiện cao nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ và chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 nói chung ngày nay đã và đang được nhân dân miền Nam nước ta vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, và trên nhiều mặt đã đưa lên một trình độ cao hơn, phong phú hơn nhiều. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng, 14 triệu đồng bào miền Nam nước ta đang tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Với tinh thần kiên quyết chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, bằng tất cả các lực lượng quân sự và lực lượng chính trị với mọi thứ vũ khí có trong tay, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và vận động binh lính địch, đồng bào miền Nam nước ta ở trên tất cả các vùng rừng núi, đồng bằng, đô thị đã làm cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai có lực lượng quân đội đông, có vũ khí hiện đại phải thất điên bát đảo, chịu hết thất bại này đến thất bại khác ngày càng nặng nề. Đó là sự phát triển mới hết sức độc đáo Việt Nam của chiến tranh nhân dân trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta.
Chúng ta khẳng định rằng, nếu kẻ địch liều lĩnh dám gây ra chiến tranh đối với miền Bắc nước ta dưới bất cứ hình thức, quy mô nào thì cuộc chiến tranh của ta tiến hành để đánh lại chúng cũng phải là cuộc chiến tranh nhân dân: Toàn dân vũ trang, toàn dân đánh giặc bằng mọi thứ có trong tay, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Vai trò của bộ đội chủ lực rất quan trọng, phải được xây dựng thật lớn mạnh về mọi mặt với một tinh thần khẩn trương, tích cực. Nhưng vai trò và địa vị chiến lược của dân quân du kích, của chiến tranh du kích, vai trò quyết định của nhân dân trong chiến dịch mãi mãi vẫn là một quan điểm cơ bản của đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta.
Chiến tranh nhân dân có chiến lược, chiến thuật của nó. Chiến lược, chiến thuật đó dựa vào tinh thần cách mạng triệt để và sáng tạo của giai cấp công nhân, dựa vào sức mạnh của quần chúng công nông đã được giác ngộ, dựa vào truyền thống anh hùng bất khuất và kinh nghiệm lâu đời đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, dưới sự chỉ đạo của tư tưởng quân sự của Đảng của giai cấp công nhân.
Kinh nghiệm của cuộc kháng chiến toàn dân của ta chứng tỏ một giai cấp, một dân tộc nhỏ chống lại sự xâm lược của bọn đế quốc có quân đội đông hơn về số lượng, mạnh hơn về trang bị kỹ thuật, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn hơn, thì phải đánh lâu dài.
Chiến lược của đế quốc Pháp là chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”. Chiến lược của ta là chiến lược đánh lâu dài. Chỉ có chiến tranh nhân dân với phương châm dựa vào sức mình là chính mới có thể đánh lâu dài được.
Trong khi nắm vững chiến lược đánh lâu dài, chúng ta hết sức khẩn trương, tích cực sáng tạo nên mọi điều kiện để từng bước làm chuyển biến về chất cuộc kháng chiến toàn dân, cuối cùng dẫn tới bước nhảy vọt lớn quyết định trong Đông Xuân 1953-1954 mà chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao nhất.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là sản phẩm của chiến lược đánh lâu dài với phương châm dựa vào sức mình là chính của Đảng ta trong cuộc chiến tranh nhân dân. Trước một kẻ địch tạm thời có ưu thế về số lượng quân đội và trang bị kỹ thuật, nhân dân ta không có điều kiện để đánh nhanh thắng nhanh. Chúng ta cần có thời gian để rèn luyện mình, vừa đánh vừa học tập, tích lũy kinh nghiệm, vừa bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong chiến đấu, cướp vũ khí giặc để cải tiến trang bị của ta. Chúng ta cần có thời gian để động viên, tổ chức, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, để tiêu hao lực lượng địch, dần dần làm chuyển biến sự so sánh lực lượng giữa ta và địch theo hướng có lợi cho ta. Kiên trì kháng chiến lâu dài, đi từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn, chúng ta mới có được trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ vĩ đại nhất và đã thắng lợi vẻ vang. Nhưng trận quyết chiến chiến lược chỉ có thể xảy ra khi mà sự so sánh lực lượng giữa hai bên tham chiến đã có chuyển biến đến một mức nhất định có lợi cho ta. Đến Đông Xuân 1953-1954, khi lực lượng của ta, trải qua bồi dưỡng tích cực, khẩn trương và lâu dài trong mấy năm kháng chiến, đã phát triển mạnh, chúng ta mới có thể đánh trận quyết chiến chiến lược với địch ở Điện Biên Phủ.
Thực tiễn chiến tranh của ta đã khẳng định điều đó. Chúng ta đã mở nhiều chiến dịch với các quy mô từ nhỏ đến lớn. Thắng lợi của ta trong từng chiến dịch đánh dấu sự tiến triển của cuộc kháng chiến, đã làm cho địch thất bại từ bộ phận đến toàn bộ.
Đi theo sự phát triển lực lượng của ta trong chiến tranh, hình thức tác chiến, quy mô sử dụng lực lượng trong các chiến dịch, địa vị và tác dụng của các chiến dịch do ta mở ra cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thức tác chiến chủ yếu là đánh du kích, chúng ta tiến dần lên đánh tập trung và đến Điện Biên Phủ, đã mở một chiến dịch công kiên có tính chất trận địa; từ đánh các cứ điểm lẻ, đánh quân địch phân tán, tiến lên đánh tập đoàn cứ điểm mạnh nhất với binh lực và phương tiện, vũ khí tập trung cao nhất của địch, về sử dụng lực lượng, từ những đơn vị nhỏ, chúng ta tiến lên những binh đoàn chủ lực tập trung; từ những đơn vị bộ binh, tiến lên sử dụng phối hợp các binh chủng khác, về địa vị, tác dụng của các chiến dịch, từ chỗ có các chiến dịch riêng lẻ của các chiến trường, đến những chiến dịch tương đối lớn hơn trên chiến trường chính (Bắc Bộ) nhưng vẫn là những chiến dịch độc lập với nhiệm vụ và mục đích có hạn, đến Đông Xuân 1953-1954, chúng ta tiến lên mở nhiều chiến dịch trong cùng một thời gian, dưới sự chỉ đạo chiến lược thống nhất, đánh trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ làm chuyển biến cục diện, mở ra một thời kỳ mới trong đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang chuẩn bị xuất phát đưa quân vào Điện Biên Phủ
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang chuẩn bị xuất phát đưa quân vào Điện Biên Phủ
Bài học chiến thắng Điện Biên Phủ cũng là bài học về sự thấu suốt tư tưởng chiến lược đánh lâu dài của Đảng, khắc phục tư tưởng nôn nóng, muốn đánh nhanh thắng nhanh. Phải đánh lâu dài, nhưng lâu dài không phải là vô hạn. Từ sự biến đổi dần dần hàng ngày, hàng tháng, chúng ta phải phát huy cao độ tính năng động chủ quan để nhanh chóng đạt tới một sự biến đổi nhảy vọt về chất, tức là phải có đầy đủ tinh thần tích cực, sáng tạo ra thời cơ giành thắng lợi, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, đưa trình độ mọi mặt của ta tiến lên từng bước để ngày càng có thể đánh lớn hơn, thắng lớn hơn dẫn tới những trận then chốt làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Nhưng sự cố gắng chủ quan không thế thoát ly tình hình thực tế. Không phải chỉ có sự nỗ lực chủ quan - tuy rằng sự nỗ lực chủ quan bao giờ cũng là điều kiện quyết định nhất - mà còn phải có điều kiện khách quan thuận lợi nữa mới có thể đánh trận lớn như trận Điện Biên Phủ. Nếu trong chiến dịch Tây Bắc năm 1952. chúng ta không tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Nà Sản của địch - tập đoàn cứ điểm này yếu hơn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - là đúng vì lúc đó ta chưa có đủ điều kiện chủ quan và khách quan cần thiết, thì quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lại là một quyết tâm rất đúng dựa trên sự tính toán đầy đủ những cố gắng rất lớn của ta, dựa trên sự phân tích đúng đắn tình hình địch, nắm đúng thời cơ diệt địch. Đó cũng là do Đảng ta biết kiên quyết tập trung lực lượng vào thời cơ thuận lợi nhất, vào hướng thích hợp nhất để giành thắng lợi quyết định cho toàn bộ cuộc chiến tranh.
Rõ ràng là quân và dân ta một mặt phải có tinh thần kiên trì kháng chiến lâu dài, mặt khác lại phải có tinh thần hết sức tích cực, khẩn trương và sáng tạo mới có thể rút ngắn thời gian, đưa cuộc kháng chiến mau đến thắng lợi. Hiện nay, trước âm mưu, hành động xâm lược và mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, những bài học về đánh lâu dài, về tinh thần tích cực, khẩn trương, sáng tạo và quyết tâm diệt địch để mau đưa kháng chiến đến thắng lợi vẫn có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với chúng ta.
Muốn đánh được lâu dài, phải đặc biệt coi trọng việc đề cao tinh thần dựa vào sức mình là chính, đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế. Nhân dân ta ra sức xây dựng hậu phương, phát triển kinh tế kháng chiến và lập các công binh xưởng để chế tạo vũ khí, đạn dược... cung cấp cho tiền tuyến. Quân đội ta lại đã tìm nguồn cung cấp ở ngay tiền tuyến, cướp súng giặc giết giặc, tiết kiệm từng viên đạn, từng hạt gạo, thực hiện khẩu hiệu “có gì đánh nấy”. Quân và dân ta đã tìm tòi, phát minh, sáng chế ra mọi phương tiện giết giặc, cứu nước. Tinh thần dựa vào sức mình là chính cũng đã được thể hiện rõ rệt ngay trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Nếu không có tinh thần dựa vào sức mình là chính thì không thể kháng chiến lâu dài, không khắc phục được khó khăn, khẩn trương, tích cực sáng tạo nên mọi điều kiện đưa cuộc kháng chiến tiến lên từng bước và không thể có chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ.
Ngày nay, chúng ta có cả miền Bắc được giải phóng đang xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, sự giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa đối với ta là rất quan trọng, nhưng chúng ta phải tiếp tục đề cao tinh thần dựa vào sức mình là chính, khắc phục mọi hiện tượng ỷ lại vào viện trợ, lãng phí, chưa biết giữ gìn tốt trang bị, vũ khí, chỉ thích trang bị hiện đại, coi thường trang bị thô sơ, trang bị cũ, v.v.. Những hiện tượng đó đều trái với tinh thần tiết kiệm, tinh thần có gì đánh nấy của quân đội ta. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta phải phát huy tinh thần dựa vào sức mình là chính trong chiến dịch Điện Biên Phủ cũng như trong cả cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc Pháp xâm lược.
Rõ ràng, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là sản phẩm và đỉnh cao nhất của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Chúng ta có thể nói được rằng: “Cuộc kháng chiến anh dũng của toàn dân ta là một trận Điện Biên Phủ lâu dài vô cùng vĩ đại”, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ LÀ THẮNG LỢI CỦA ĐƯỜNG LỐI
XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Chiến dịch Điện Biên Phủ là thử thách cao nhất đối với quân đội ta trong cuộc kháng chiến 1945-1954. Ở chiến dịch này, bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của quân đội đã được phát huy cao độ. Quân đội ta đã chiến đấu vô cùng anh dũng và chiến thắng vô cùng oanh liệt.
Các nhà lý luận quân sự tư bản không thể giải thích đúng đắn vì sao quân ta ở Điện Biên Phủ, với những cán bộ và chiến sĩ phần lớn là công nông, vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại không có bao nhiêu lại đánh thắng được một quân đội nhà nghề hùng mạnh, có nhiều vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại, có ưu thế tuyệt đối về không quân, do những tên sĩ quan tốt nghiệp nhiều trường quân sự chính quy của đế quốc chỉ huy.
Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, phòng ngự kiên cố; phải có một trình độ hỏa lực nhất định mới đánh được. Quân ta đã được tăng cường pháo binh và một số đơn vị súng cao xạ. Đồng thời, để giải quyết những khó khăn rất lớn về tiếp tế, chúng ta đã tập trung được một số lượng ô tô nhất định để bảo đảm công tác vận chuyển. Lực lượng binh khí kỹ thuật đã là một yếu tố quan trọng của thắng lợi. Và đó cũng là biểu hiện của một bước trưởng thành mới của quân đội ta. Không có lực lượng binh khí kỹ thuật đó, khó mà đánh được một tập đoàn cứ điểm mạnh như Điện Biên Phủ, và không có lực lượng cơ giới nhất định cũng khó mà bảo đảm nổi công tác vận chuyển, tiếp tế một khối lượng lớn lương thực, đạn dược... cho mặt trận xa hậu phương hàng mấy trăm kilômét như thế.
Tuy nhiên, nhìn riêng về mặt hỏa lực, địch ở Điện Biên Phủ vẫn mạnh hơn ta rất nhiều. Chúng có nhiều đạn dược hơn hẳn ta, lại có một lực lượng không quân và cơ giới mạnh. Nếu đơn thuần và chủ yếu căn cứ vào hỏa lực, thì không thể hạ quyết tâm đánh địch. Và rõ ràng, nếu lấy việc trang bị kỹ thuật đã được cải tiến của quân ta ở Điện Biên Phủ để giải thích nguyên nhân quyết định thắng lợi của ta thì không thể giải thích nổi. Chiến thắng Điện Biên Phủ là do quyết tâm chiến lược rất sáng suốt và dũng cảm của Đảng ta; do việc chỉ đạo chiến dịch, chiến thuật đúng đắn; do trình độ chính trị, tư tưởng, trình độ chiến thuật, kỹ thuật của quân đội ta đã tiến lên một bước mới.
Cơ sở để chúng ta hạ quyết tâm tiêu diệt quân địch ở Điện Biên Phủ và vận dụng sáng tạo được những chiến thuật và kỹ thuật mới là căn cứ vào sự phân tích nắm vững tình hình so sánh lực lượng chung giữa ta và địch lúc bấy giờ, căn cứ vào khả năng và điều kiện tác chiến cụ thể của ta, địch trên chiến trường và trước hết dựa vào tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân đội ta, vào tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngày 22/4/1954, vị trí 206 đã bị quân ta tiêu diệt, bọn còn sống sót đang giơ tay xin hàng
Ngày 22/4/1954, vị trí 206 đã bị quân ta tiêu diệt, bọn còn sống sót đang giơ tay xin hàng
Chính nhờ có tinh thần quyết chiến quyết thắng, anh dũng tuyệt vời, không tiếc xương máu để rửa hận thù giai cấp và dân tộc, quân ta đã chiến đấu dưới làn mưa bom bão đạn của địch trong 55 ngày đêm liền ở Điện Biên Phủ (nếu kể cả chiến cuộc Đông Xuân thì thời gian chiến đấu kéo dài đến nửa năm), giành đi giật lại với địch từng mỏm đồi, từng tấc đất quê hương, quyết chôn vùi nơi đây binh đoàn Đờ Cát và cả mưu đồ xâm lược của bọn đế quốc thực dân. Trên tất cả các mặt trận, quân ta khắc phục muôn vàn khó khăn, có khi phải ăn cháo, nhịn đói mà đánh địch. Có đơn vị hành quân bộ trên 3.000km để truy kích địch.
Chính nhờ có tinh thần quyết chiến quyết thắng và sức lao động sáng tạo của mình, quân ta đã làm đường chuyển pháo vào trận địa xuyên qua rừng núi, gỡ bom nổ chậm, mở đường vận chuyển, không nản chí kéo pháo vào lại kéo pháo ra trên những dốc núi cao dựng đứng và bên những vực sâu thăm thẳm, nên khi pháo ta nổ thì quân địch hoàn toàn bị bất ngờ. Địch biết ta có pháo nhưng chúng không thế ngờ ta đưa được pháo vượt núi rừng hiểm trở lên Điện Biên Phủ.
Chính nhờ có tinh thần quyết chiến quyết thắng, bằng chiến đấu dũng cảm kết hợp với lao động dũng cảm, quân ta đã biến đổi địa hình, xây dựng trận địa, đảo chiến hào, siết chặt vòng vây, diệt địch. Mỗi đoạn chiến hào là một trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch.
Chính nhờ có tinh thần quyết chiến quyết thắng, quân ta, qua kinh nghiệm xương máu của mình đã sáng tạo và áp dụng được lần đầu tiên những chiến thuật, kỹ thuật mới và qua thực tiễn chiến đấu dũng cảm, quân ta đã từng bước và ngày càng nhanh chóng trưởng thành, tiến lên trình độ tác chiến mới, cao hơn.
Chính nhờ có tinh thần quyết chiến quyết thắng mà những đồng chí lái xe hàng chục đêm không ngủ, nhiều người mới được đào tạo ngay trong chiến dịch, đã lái xe vượt suối băng rừng, qua những quãng đường đầy bom nổ chậm của địch. Hàng vạn dân công từ vùng tự do đến vùng mới giải phóng và vùng tạm bị chiếm, với đôi vai và đôi chân của những nông dân cần cù, căm thù sâu sắc bọn đế quốc và địa chủ phong kiến đã tự nguyện tự giác vượt hàng trăm kilômét đường dưới làn mưa bom đạn của địch để tiếp tế cho mặt trận, vận chuyển thương binh về tuyến sau. Đó cũng là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với địch.
Rõ ràng, không dựa trên tinh thần quyết chiến quyết thắng, anh dũng hy sinh của quân và dân ta, chúng ta không thể hạ quyết tâm đánh địch, không thể khắc phục được muôn vàn khó khăn, không thể sáng tạo và áp dụng những chiến thuật và kỹ thuật thích hợp để tiêu diệt địch. Chính tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội và nhân dân ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là một nhân tố quyết định thắng lợi ở Điện Biên Phủ.

Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát.
Ngày 7/5/1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" đang phấp phới bay trên nóc hầm tên bại tướng thực dân pháp Đờ-cát.
...
Nói đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là phải nói đến công tác chính trị. Quá trình tăng cường sự lãnh của Đảng cũng là quá trình nâng cao vai trò của công tác chính trị, đấu tranh chống những khuynh hướng sai lầm, coi nhẹ hoặc hạ thấp vị trí của nó. Có nhìn thắng lợi Điện Biên Phủ gắn liền với cả quá trình xây dựng và trưởng thành của quân đội ta, mới thấy vị trí quan trọng của công tác chính trị trong quân đội cách mạng. Tinh thần quyết chiến quyết thắng, truyền thống quật cường bất khuất, bản chất cách mạng tốt đẹp của quân đội ta - nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ - được phát huy cao độ không phải chỉ là kết quả của việc làm trong vài tháng, mà là kết quả dựa trên cơ sở chính trị vững chắc tiềm tàng của quân đội ta từ trước. Cho nên bao giờ cũng vậy, chúng ta phải coi việc xây dựng Đảng, tăng cường công tác chính trị là vấn đề căn bản để bảo đảm tăng cường bản chất cách mạng, phát huy truyền thống tốt đẹp và ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần của ta để chiến thắng kẻ địch.
Công tác chính trị trong quân đội đặt việc giáo dục chính trị, tư tưởng lên hàng đầu, vì công tác chính trị là công tác lãnh đạo, vận động, giáo dục quần chúng, làm cho đông đảo cán bộ, chiến sĩ do giác ngộ lợi ích cách mạng mà tự nguyện triệt để chấp hành mọi nhiệm vụ của Đảng trao cho, tự nguyện chiến đấu hy sinh vì lợi ích cách mạng.
Kết hợp giáo dục giác ngộ giai cấp với giác ngộ dân tộc, lấy giác ngộ giai cấp làm cơ sở, đó là phương hướng cơ bản của công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Giáo dục về đường lối và nhiệm vụ của Đảng là nội dung chủ yếu của công tác đó. Chỉ khi nào được giác ngộ về quyền lợi dân tộc, hiểu rõ đường lối, nhiệm vụ của Đảng, bản chất giai cấp và mục tiêu chiến đấu của quân đội thì cán bộ, chiến sĩ ta mới có được chí căm thù địch sâu sắc, lòng yêu nước nồng nàn, mới thương yêu nhau như ruột thịt, mới có tinh thần chiến đấu dũng cảm, phi thường, quyết chiến quyết thắng.
Từ khi quân đội ta mới ra đời, nhất là từ những năm 1950 - 1951 về sau, chúng ta đã tiến hành những cuộc vận động giáo dục chính trị sâu rộng về hai phe trên thế giới, về bản chất của quân đội nhân dân, về đường lối cách mạng, đường lối kháng chiến của Đảng, làm cho trình độ giác ngộ chính trị của quân đội ta được nâng lên từng bước. Đó thật sự là những cuộc vận động cách mạng hóa quân đội. Đặc biệt năm 1953, cùng với cuộc phát động cải cách ruộng đất của Đảng, cuộc chỉnh huấn về cải cách ruộng đất đã đánh dấu một bước chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho quân đội. Cuộc chỉnh huấn đó đã đem lại một sức mạnh mới cho quân đội ta, khiến cho cán bộ và chiến sĩ ta có trình độ giác ngộ giai cấp khá cao, có lòng căm thù đế quốc và phong kiến sâu sắc, ai ai cũng nô nức thi đua giết giặc lập công. Cuộc vận động giáo dục chính trị đó là một bước chuẩn bị cơ bản nhất cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ không tách rời thắng lợi của cuộc vận động giáo dục về chính sách cải cách ruộng đất.
Công tác chính trị trong quân đội phải gắn chặt với hoạt động chiến đấu của quân đội. Nó không chỉ dừng ở chỗ giáo dục đường lối, nhiệm vụ cách mạng và chính sách chung của Đảng, mà còn phải đi sâu giáo dục tư tưởng quân sự của Đảng, phương châm chiến lược và tư tưởng chỉ đạo tác chiến. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng ta đã giáo dục cho quân đội nắm vững chủ trương quân sự, mục đích, ý nghĩa của chiến dịch, phương châm tác chiến, và tư tưởng chiến thuật đúng đắn để áp dụng các hình thức chiến thuật và thủ đoạn chiến đấu vào trong chiến dịch tiến công một tập đoàn cứ điểm mạnh của địch.
Tuy vậy, việc giáo dục cho quân đội thấu suốt tư tưởng và nhiệm vụ quân sự bao giờ cũng phải dựa chắc trên cơ sở nâng cao giác ngộ giai cấp, dân tộc, giáo dục đường lối, nhiệm vụ cách mạng cho quân đội. Giáo dục chính trị thường xuyên trước chiến đấu là bồi dưỡng tinh thần chiến đấu cho quân đội, nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường. Tinh thần chiến đấu trên chiến trường là kết quả và cũng là cái khảo nghiệm công tác giáo dục chính trị thường xuyên trước chiến đấu.
...
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức, các mặt đó không thể tách rời nhau. Một hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội từ đại đội trở lên đã được xây dựng và ngày càng được củng cố, kiện toàn. Sau chiến dịch Biên giới, qua nhiều năm kinh nghiệm và trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Trung ương Đảng lại tăng cường thêm sự lãnh đạo đối với quân đội. Chế độ lãnh đạo của Đảng trong quân đội là chế độ lãnh đạo tập thể, tức chế độ đảng ủy lãnh đạo, thủ trưởng phân công phụ trách, cũng được kiện toàn thêm một bước, số lượng đảng viên ngày một phát triển, trình độ đảng viên ngày một nâng lên. Tổ chức Đảng các cấp đã luôn luôn là hạt nhân lãnh đạo mọi mặt đoàn kết đơn vị, phát huy dân chủ về quân sự, chính trị, kinh tế để phát động lực lượng mạnh mẽ của quần chúng, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó, bảo đảm cho quân đội ta luôn luôn là công cụ sắc bén, tin cậy của Đảng. Trên chiến trường Điện Biên Phủ cũng như trên các chiến trường phối hợp, trong từng làng và ổ chiến đấu ở khắp nơi, các cấp đảng bộ, chi bộ, tổ đảng, đảng viên đã nêu cao vai trò lãnh đạo, đoàn kết quần chúng, biến quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của quần chúng, anh dũng chiến đấu, xung phong dẫn đầu bộ đội trong tất cả các tình huống chiến đấu gay go, ác liệt. Khi đảng viên hy sinh, các tổ chức Đảng xộc xệch, thì công tác chấn chỉnh tổ chức, kết nạp, bồi dưỡng đảng viên mới, được tiến hành khẩn trương ngay tại mặt trận để bảo đảm giữ vững và phát triển những hạt nhân lãnh đạo (riêng mấy đại đoàn trong chiến dịch này đã kết nạp được 1.281 đảng viên mới). Những anh hùng Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện... chính là những đảng viên cộng sản ưu tú trong rất nhiều đảng viên ưu tú khác đã nêu gương dũng cảm hy sinh trong chiến dịch. Rõ ràng, xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh trong quân đội là một trong những công tác hàng đầu để xây dựng quân đội vững mạnh.
Thực tiễn thắng lợi của quân ta ở Điện Biên Phủ cũng như cả quá trình trưởng thành của quân đội ta chứng minh đường lối xây dựng quân đội của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
***
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ, đến nay đã được mười năm. Nhân dân ta ở miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thành quả của cuộc kháng chiến ấy. Nhân dân ta ở miền Nam đang phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng Điện Biên Phủ, tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai.
Kỷ niệm lần thứ mười chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta hãy ôn lại một số bài học trên đây, để nâng cao hơn nữa lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, để thấu suốt hơn nữa đường lối cách mạng, đường lối đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng; để quân đội ta phát huy hơn nữa bản chất cách mạng và truyền thống quyết chiến quyết thắng Điện Biên Phủ, làm trọn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc, bảo vệ hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
[1] Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, t.33, tr.28.
[2] Xem V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, t.33, tr.28.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1998. t2. tr.88.
[4] Sđd tr 116
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t7, tr.251.
[VI] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t4, tr.480.
* Bài viết nhân dịp kỷ niệm mười năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Nay có sửa chữa.
Thiếu tướng LÊ QUANG ĐẠO
Trình bày: HÙNG HIẾU
Ảnh: TTXVN
Nguồn: Sách: Điện Biên Phủ - Chiến thắng thế kỷ (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2004) - trang 657
Trở về nhandan.vn
Trở về Chuyên trang 70 năm Điện Biên Phủ