Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Ưu tiên tập trung nguồn lực cho nhiệm vụ phát triển bằng được nền công nghiệp quốc phòng
Theo Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, chủ trương xây dựng Quân đội tinh gọn, mạnh tiến lên hiện đại có ý nghĩa hết sức quan trọng; là chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới.
Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989-22/12/2024), phóng viên Báo Nhân Dân trao đổi với Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về chủ trương quan trọng này cũng như những thành tựu Quân đội ta đạt được trong những năm qua.
Chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
PV: Xin Thượng tướng cho biết ý nghĩa của chủ trương xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại? Chủ trương này được thể hiện xuyên suốt trong lịch sử 80 năm qua của Quân đội nhân dân Việt Nam như thế nào?
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa: Thứ nhất, có thể khẳng định, chủ trương xây dựng Quân đội tinh gọn, mạnh tiến lên hiện đại có ý nghĩa hết sức quan trọng; là chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, “chủ động giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong tình hình mới.
Xét về cả cơ sở lý luận và thực tiễn đều cho thấy, việc xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân đội ngày càng mạnh lên, có đủ khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; góp phần xây dựng tiềm lực quân sự vững mạnh, giữ vững ổn định để phát triển đất nước, ngăn ngừa và răn đe về mặt quân sự, không để xảy ra chiến tranh; bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; nâng cao vị thế và uy tín của Quân đội trên trường quốc tế. Sẵn sàng đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Thứ hai, quá trình chiến đấu, xây dựng và trưởng thành 80 năm qua, quan điểm về xây dựng Quân đội tiếp tục có bước phát triển mới, đặc biệt là quan điểm xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại được hình thành từ sớm và từng bước bổ sung, hoàn thiện. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), lần thứ III (1960), đã đưa ra vấn đề phải xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thành một Quân đội hùng mạnh, một quân đội cách mạng, tiến lên chính quy, hiện đại. Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội Đảng lần thứ IV năm 1976 đã chỉ rõ: Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có Quân đội nhân dân chính quy, hiện đại.
Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), phương hướng xây dựng Quân đội hiện đại tiếp tục được khẳng định và phát triển. Đến Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), XII 2016), cùng với việc khẳng định các quan điểm xây dựng Quân đội hiện đại trước đó, Đảng ta tiếp tục xác định xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; ưu tiên hiện đại một số quân chủng, binh chủng, lực lượng Phòng không - Không quân, Hải quân, Cảnh sát Biển, Tác chiến điện tử, Trinh sát kỹ thuật, Thông tin liên lạc... Trong giai đoạn này, để tiếp tục xác định nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành đồng bộ các Nghị quyết, Kết luận.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) xác định mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025 cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW và ngày 02/4/2022 Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 230-NQ/QUTW về tổ chức QĐND Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo, xác định mục tiêu: “Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bưởc hiện đại, một sổ quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.
Như vậy, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh tiến lên hiện đại là mục tiêu nhất quán không thay đổi, nhưng cách thức là tiến dần từng bước vững chắc, phù hợp với điều kiện, khả năng kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, trực tiếp là đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và Quân đội nhân dân nói riêng, đồng thời cũng như yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Chủ trương xây dựng Quân đội tinh gọn, mạnh tiến lên hiện đại có ý nghĩa hết sức quan trọng; là chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta...
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa
PV: Trong thời gian qua, để thực hiện xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh; Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức lực lượng như thế nào góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta, thưa Thượng tướng?
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa: Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân ta, được triển khai thực hiện dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, trong đó, phát huy vai trò cơ quan tham mưu hoạch định chiến lược là vấn đề mấu chốt để có những chiến lược, chính sách đúng đắn, khoa học, thiết thực, khả thi, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc nhất là bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”. Cơ quan tham mưu hoạch định chiến lược là cơ quan có chức năng nghiên cứu, đề xuất ý tưởng, tham mưu, biên soạn, xây dựng, quyết nghị và ban hành các văn bản chiến lược, chính sách ở tầm vĩ mô (cấp quốc gia, cấp bộ, ngành, toàn quân, toàn quốc).
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tổ chức ra các cơ quan tham mưu giúp việc là Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam; Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, các tổng cục, các cục, vụ, viện… để tư vấn, tham mưu hoạch định chiến lược, chính sách trên từng lĩnh vực ngành hoặc toàn diện hoạt động quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Đây là những cơ quan chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu, đề xuất và trực tiếp biên soạn, “thiết kế” nội dung các vấn đề chiến lược, chính sách, pháp luật về xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”. Chất lượng, tính khoa học, tính Đảng, tính nhân dân, tính dân tộc, tính cách mạng, tính khả thi, thực tiễn của các chiến lược, chính sách xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” phụ thuộc rất nhiều vào các cơ quan tham mưu hoạch định.
Mặt khác, trong quá trình thiết kế, chuẩn bị (dự thảo) nội dung các chiến lược, chính sách thường được gửi đến các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu chiến lược, các tổ chức, lực lượng liên quan cả trong và ngoài Quân đội để xin ý kiến trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết nghị, ban hành. Do vậy, các chiến lược, chính sách xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” thời kỳ mới có tạo sự đồng thuận cao của đội ngũ cán bộ và của toàn xã hội hay không cũng phụ thuộc lớn vào vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham mưu hoạch định.
Thời gian qua, Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII); Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện tốt công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức lực lượng, giúp Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng tổ chức, chỉ đạo xây dựng Quân đội.
Cụ thể, đã tham mưu lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong toàn quân quán triệt và triển khai thực hiện tốt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về quân sự, quốc phòng, trong đó có “xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh”, làm cơ sở xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Đã tham mưu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao; trong đó đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng Quân có cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phù hợp với Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự cân đối, đồng bộ giữa các quân chủng, binh chủng, giữa cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên; góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn quân và toàn dân ta.
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa
Từ năm 2017 đến nay, toàn quân đã điều chỉnh tổ chức và ban hành biểu tổ chức biên chế của gần 4.000 tổ chức. Các cơ quan, đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trên các địa bàn chiến lược, trọng yếu, biên giới, biển, đảo,... được điều chỉnh theo hướng tăng quân số và bổ sung thêm một số loại vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, khí tài mới, hiện đại.
Song song với quá trình điều chỉnh về tổ chức, biên chế, quân số..., công tác mua sắm, sản xuất bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cũng được tiến hành đồng thời nhằm xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh. Trong đó, tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại (Phòng không - Không quân, Hải quân, Cảnh sát biển...); từng bước bảo đảm vũ khí hiện đại cho lực lượng lục quân (bảo đảm đầy đủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các sư đoàn đủ quân hỏa lực mạnh) góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đến nay, cơ bản Quân đội được điều chỉnh phù hợp với Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự cân đối, tương đối đồng bộ giữa các quân binh chủng, giữa các cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Kết quả đó, bảo đảm cho Quân đội ta ngày càng được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ưu tiên nguồn lực, phát triển bằng được nền Công nghiệp quốc phòng
PV: Sau 3 năm quyết liệt triển khai, kết quả việc điều chỉnh tổ chức lực lượng theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng đã có chuyển biến rõ rệt như thế nào, thưa Thượng tướng?
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa: Sau 3 năm thực hiện điều chỉnh lực lượng, đến nay, cơ bản Quân đội được điều chỉnh phù hợp với Quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo đảm sự cân đối, tương đối đồng bộ giữa các quân binh chủng, giữa các cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên, cụ thể:
Khối cơ quan, công tác rà soát, điều chỉnh tổ chức biên chế đối với cơ quan các cấp, nhất là cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược được tiến hành thường xuyên, chặt chẽ theo hướng giảm các tổ chức trung gian và từng bước khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
Khối đơn vị, cùng với việc sáp nhập, rút gọn, giải thể một số bộ phận, ưu tiên thành lập, nâng cấp một số đơn vị, lực lượng đặc thù, phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ và điều chỉnh thế bố trí chiến lược trên các vùng miền, nhất là các khu vực trọng điểm về quốc phòng, an ninh.
Hệ thống nhà trường, viện nghiên cứu, các cơ sở sản xuất, các đoàn kinh tế - quốc phòng, được điều chỉnh một bước về cơ cấu tổ chức, bảo đảm phù hợp với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của Quân đội, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Lực lượng dự bị động viên, được tổ chức, sắp xếp theo hướng gọn đầu mối, địa bàn, cân đối giữa các vùng miền, có tổ chức và quân số phù hợp, đáp ứng yêu cầu động viên cả thời bình và thời chiến.
Kết quả đó, bảo đảm cho Quân đội ta ngày càng được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
PV: Thời gian tới đây, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần thực hiện những giải pháp nào để tiếp tục đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, thưa Thượng tướng?
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa: Trước bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp động diễn biến phức tạp, mặc dù quá trình điều chỉnh tổ chức xây dựng Quân đội thời gian qua chúng ta đã được những kết quả rất quan trọng. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, thời gian tới chúng ta cần tiếp tục tăng cường các giải pháp, tổ chức thực hiện, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng đã đề ra, trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, chủ động, nhạy bén, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, đánh giá đúng tình hình, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, sách lược quân sự, quôc phòng đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quôc cả trước mắt và lâu dài; kịp thời xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ.
Thứ hai, tiếp tục triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, quyết tâm hoàn thành mục tiêu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại; tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quân sự, quốc phòng, nghệ thuật quân sự; đột phá thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính quân sự, chuyển đổi số, xây dựng chính phủ điện tử trong Bộ Quốc phòng.
Thứ ba, phối hợp triển khai cụ thể các giải pháp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ các cấp vững chắc. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Ọuân đội; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ, các hoạt động phát triên kinh tế biển; phối hợp giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước.
Thứ tư, thực hiện nghiêm chủ trương, chỉ đạo của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ năm, thực hiện có hiệu quả công tác hậu cần, kỹ thuật, phát triển công nghiệp quốc phòng và các mặt công tác khác. Tiến hành hoạt động đối ngoại quốc phòng chủ động, linh hoạt, thực chất, hiệu quả; tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội trên trường quốc tế.
Song song với quá trình điều chỉnh về tổ chức, biên chế, quân số, công tác mua sắm, sản xuất bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cũng được tiến hành đồng thời nhằm xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh.
Nhiều đơn vị như Phòng không - Không quân đã được tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại...
Đặc biệt, hiện đại hóa Quân đội còn được thể hiện mạnh mẽ rõ nét qua sự phát triển lớn mạnh, làm chủ công nghệ sản xuất của Công nghiệp quốc phòng nói chung, của các Tập đoàn Công nghiệp quốc phòng, điển hình như Tập đoàn Viettel (đã sản xuất Tên lửa hiện đại cả đối đất, đối không, đối biển...)
Giai đoạn 2010-2023, Quân đội đã được đầu tư mua sắm một số chủng loại vũ khí, trang bị là vũ khí công nghệ cao thế hệ mới có hỏa lực mạnh, tính răn đe cao, ưu tiên mua vũ khí trang bị phòng thủ - phản công kèm theo hợp đồng chuyển giao công nghệ. Trong ảnh là tổ hợp Tên lửa phòng không Spyder hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hệ thống tên lửa bờ của Quân chủng Hải quân.
Tàu ngầm Kilo-636 hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam.
PV: Hiện nay Quân đội ta đang thực hiện đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa một số lực lượng. Xin Thượng tướng khái quát về tiến trình này, cũng như giới thiệu một số quân, binh chủng đã làm tốt yêu cầu “hiện đại hóa” nêu trên ? (trong các lĩnh vực: Công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa các lực lượng: Hải quân, Phòng không-Không quân, Tác chiến điện tử)?
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa: Trong giai đoạn từ năm 2017 đến nay, song song với quá trình điều chỉnh về tổ chức, biên chế, quân số..., công tác mua sắm, sản xuất bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cũng được tiến hành đồng thời nhằm xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh. Trong đó, tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại (Phòng không - Không quân, Hải quân, Cảnh sát biển...); từng bước bảo đảm vũ khí hiện đại cho lực lượng lục quân (bảo đảm đầy đủ vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại cho các sư đoàn đủ quân hỏa lực mạnh).
Hiện đại hóa Quân đội được thể hiện mạnh mẽ rõ nét trong công tác bảo đảm trang bị: sự phát triển lớn mạnh, làm chủ công nghệ sản xuất của Công nghiệp quốc phòng nói chung, của các Tập đoàn Công nghiệp quốc phòng, điển hình như Tập đoàn Viettel (sản xuất Tên lửa hiện đại cả đối đất, đối không, đối biển …) đã bảo đảm vũ khí, trang bị hiện đại có tầm chiến lược cho Quân đội.
Giai đoạn 2010-2023, Quân đội đã được đầu tư mua sắm một số chủng loại vũ khí, trang bị là vũ khí công nghệ cao thế hệ mới có hỏa lực mạnh, tính răn đe cao, ưu tiên mua vũ khí trang bị phòng thủ - phản công kèm theo hợp đồng chuyển giao công nghệ (Tàu ngầm, Tàu tên lửa, hệ thống Ra đa biển, tổ hợp Tên lửa bờ… của Quân chủng Hải quân; hệ thống cảnh giới và bảo vệ Vùng trời Quốc gia, Máy bay SU- 30MK2,Tổ hợp tên lửa S-300-PMU1, Spyder, cải tiến tổ hợp tên lửa phòng không S-125M …của Quân chủng Phòng không - Không quân; trang bị tàu trên 2.000 tấn của Cảnh sát biển; hệ thống tự động chỉ huy của Tác chiến điện tử…
Về phương hướng trong thời gian tới, ưu tiên tập trung nguồn lực cho nhiệm vụ phát triển bằng được nền công nghiệp quốc phòng, phấn đấu đến năm 2030 nghiên cứu, thiết kế tạo và sản xuất được trên 50% vũ khí trang bị chính của Quân đội; trong đó bao gồm cả một số vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, tiên tiến, hiện đại như tên lửa tầm xa; các tàu chiến đấu cỡ lớn; vệ tinh quân sự; máy bay...
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, song song với nội dung điều chỉnh về tổ chức, biên chế, quân số... công tác mua sắm, sản xuất bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cũng tiếp tục được tiến hành đồng thời nhằm từng bước hiện đại hóa Quân đội. Trong đó, tập trung bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại như máy bay Su-30MK2, tổ hợp tên lửa bờ Bastion, tàu ngầm Kilo-636, xe tăng T90S/SK... cho các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại (Phòng không Không quân, Hải quân, Cảnh sát biển...); từng bước bảo đảm vũ khí hiện đại cho lực lượng lục quân (bảo đảm đầy đủ vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại cho các sư đoàn đủ quân hỏa lực mạnh) góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ưu tiên tập trung nguồn lực cho nhiệm vụ phát triển bằng được nền công nghiệp quốc phòng, phấn đấu đến năm 2030 nghiên cứu, thiết kế tạo và sản xuất được trên 50% vũ khí trang bị chính của Quân đội
Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa
PV: Xin trân trọng cảm ơn đồng chí về cuộc trò chuyện này.
Ngày xuất bản: 23/12/2024
Tổ chức sản xuất: LÊ HỒNG VÂN
Thực hiện: NHÓM PV
Thiết kế: BÌNH AN
Hình ảnh: THÀNH ĐẠT, TTXVN, BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN