TIẾP QUẢN THỊ XÃ SƠN TÂY NGÀY 3/8/1954

Thành cổ Sơn Tây thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng. Nguồn: Ảnh tư liệu của Ban Tuyên giáo Thị ủy Sơn Tây

Thành cổ Sơn Tây thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng. Nguồn: Ảnh tư liệu của Ban Tuyên giáo Thị ủy Sơn Tây

Thị xã Sơn Tây cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 40km, là một địa bàn chiến lược quân sự quan trọng ở Bắc Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Ngay từ ngày đầu xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã chọn Sơn Tây là nơi tập trung xây dựng căn cứ quân sự khống chế toàn bộ khu vực đồng bằng sông Hồng; làm điểm xuất phát tiến công lên Việt Bắc, Tây Bắc để tiêu diệt lực lượng cách mạng do Đảng và Chính phủ Việt Nam mà trực tiếp là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Thực dân Pháp đã tập trung ở đây một lực lượng binh lực mạnh, đưa hàng nghìn binh lính xây dựng nhiều đồn bốt, tạo thành vành đai trắng, nhằm chia rẽ, cô lập lực lượng cách mạng với nhân dân, biến thành nơi chỉ huy các vùng lân cận của tỉnh Sơn Tây, thực hiện chính sách bình định tàn bạo và ác liệt.

Ngay từ ngày đầu, thực dân Pháp đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân, dân Sơn Tây. Sống trong vùng bị địch tạm chiếm, nhân dân thị xã đã có nhiều hình thức đấu tranh với địch: Chống địch càn quét, khủng bố bắt bớ và làm cơ sở giúp cán bộ cách mạng hoạt động. Các trận đánh phục kích, tập kích của lực lượng vũ trang, các đội du kích của thị xã ở các địa điểm quan trọng: Bến xe, thôn Mai Trai, Sơn Lộc, phố Mía, Phù Sa và các phố chung quanh Thành cổ Sơn Tây... đã làm cho quân giặc hoang mang lo sợ. Ta đã bắt sống và vận động hàng nghìn tên lính ra hàng.

Cuối tháng 4 đầu tháng 5/1954, Tỉnh ủy Sơn Tây đã chỉ đạo lực lượng vũ trang trên địa bàn đẩy mạnh hoạt động thọc sâu vào trong lòng địch, tập kích nhiều vị trí quanh thị xã như: Trạm gác Bảo chính đoàn ở chốt Nghệ cửa ngõ phía nam từ Hà Nội đi Sơn Tây; bốt com-măng-đô Phù Sa (Viên Sơn, Sơn Tây) bắt sống 12 tên, tiêu diệt 2 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.  

 Đình Phù Sa, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã ở và làm việc, tháng 10/1954. Ảnh tư liệu

 Đình Phù Sa, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây - nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã ở và làm việc, tháng 10/1954. Ảnh tư liệu

Việc tiêu diệt bốt com-măng-đô Phù Sa đã gây một tiếng vang lớn trong nhân dân và gây tâm lý hoang mang dao động đối với ngụy quân, ngụy quyền ở thị xã và bọn quân lính người Pháp, bởi vì bọn lính bốt này khét tiếng là hung hăng, tàn bạo, bốt lại nằm cách trung tâm thị xã hơn 1km, nơi đặt tổng hành dinh chỉ huy tác chiến của thực dân Pháp ở mặt trận phía Tây Hà Nội. Ngoài đê là bốt Zê-ni, phía xuôi là các bốt Thiều Xuân, Sen Chiểu nằm ở thế rất lợi hại. Tuy chung quanh có nhiều đồn bốt bao bọc nhưng ta vẫn đánh nhanh, diệt gọn, chứng tỏ sự cơ động trong chỉ huy tác chiến của lực lượng vũ trang thị xã đã trưởng thành vượt bậc, đáp ứng kịp thời với yêu cầu của cuộc kháng chiến.

Phối hợp với hoạt động quân sự, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng cũng phát triển mạnh mẽ, quần chúng tham gia đấu tranh ngày càng đông đảo, các hình thức đấu tranh tập thể rất linh hoạt và quyết liệt, nhất là đấu tranh chống địch bắt lính, chống khủng bố bắt người. Những hoạt động mạnh mẽ trên cả hai mặt quân sự, chính trị dồn dập đã làm cho địch lúng túng đối phó, chúng không còn thế chủ động như trước nữa; bọn địa phương quân tan rã nhanh chóng, số còn lại sáp nhập vào Bảo chính đoàn ở Ái Mỗ, Văn Miếu. Bộ máy tề và bọn do thám hoang mang trước những đòn trừng trị của ta đối với một số kẻ phản động, chúng không dám hung hăng như trước, một số ngoan ngoãn chịu sự điều khiển của ta.

Chiến công của quân, dân Sơn Tây đã cùng cả nước hỗ trợ, chỉ viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 7/5/1954, tin chiến thắng ở Điện Biên Phủ vang đi khắp nơi và nhanh chóng truyền về thị xã.

Bên trong Thành cổ Sơn Tây trước năm 1954. Ảnh tư liệu

Bên trong Thành cổ Sơn Tây trước năm 1954. Ảnh tư liệu

Các khu du kích Quảng Oai, Thạch Thất, Phúc Thọ ngày càng mở rộng và vững mạnh làm cho địch ở Sơn Tây rất lo sợ và bối rối, mất ổn định về tư tưởng, đào ngũ hàng loạt. Lợi dụng thời cơ đó, kết hợp với cơ sở cài cắm sẵn từ trước, lực lượng binh vận đã vận động binh lính bốt Zê-ni ở Bến Tàu (là khu vực cảng Sơn Tây ngày nay) trói bọn chỉ huy, mang súng ra hàng lực lượng kháng chiến. 40 tên địch đã mang theo 1 súng cối 61 ly, 2 ca-nô, 2 vô tuyến điện, 6 tiểu liên, 2 trung liên và 100 súng trường ra hàng cách mạng.

Từ tháng 6/1954, địch ở thị xã rất hoang mang, lực lượng địch rút dần về Hà Nội, để lại lính ngụy là chính, công tác tuyên truyền địch ngụy ngày càng có điều kiện đẩy mạnh và có kết quả. Cờ đỏ sao vàng xuất hiện ngày càng nhiều, truyền đơn, áp phích tuyên truyền tin thắng lợi của ta được tung và dán ở khắp nơi: bến xe, chợ, nơi công cộng trước trụ sở địch... Nhiều tên lính thấy áp-phích của ta xúm lại xem nhưng không tên nào dám xé. 

Ngay sau lễ tuyên dương chiến thắng ở Điện Biên Phủ, dự đoán địch có thể rút khỏi Sơn Tây, một số đơn vị chủ lực của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 304 được điều động tăng cường cho địa bàn Sơn Tây, đã phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích bao vây chặt các vị trí đóng quân của địch; phong tỏa các đường giao thông, nhất là đường 11A Hà Nội-Sơn Tây, nhiều toán địch đi tuần tiễu bị tiêu diệt. Việc tiếp tế bằng đường bộ bị cắt, địch phải tiếp tế bằng đường không và dựa vào công sự kiên cố để cố thủ. Thời gian này, địch hoang mang dao động đến cực độ, không ngày nào là không có lính ra hàng hoặc đào ngũ, có khi đến cả tiểu đội, trung đội.

Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch. Ảnh: TTXVN

Các vị trí của địch trên đồi Him Lam bị trúng đạn pháo của ta đang bốc cháy, các vị trí trên đồi này đã bị tiêu diệt ngay trong ngày 13/3, ngày mở đầu chiến dịch. Ảnh: TTXVN

Sau khi chiếm được đồi Him Lam ở mặt trận Điện Biên Phủ, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển hướng chiến lược không đánh sang Thượng Lào mà đánh mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ để triệt phá nguồn tiếp tế, binh lượng và quân lính, không cho chúng có hậu thuẫn và tiếp tế lên Điện Biên Phủ. Do đó lúc này, Trung đoàn 57(1) được giao nhiệm vụ hoạt động ở Sơn Tây và Hà Đông. Chưa đầy một tháng trung đoàn đã giải phóng được phần lớn đất đai và dân cư ở phía tây, phía nam Sơn Tây và Hà Đông. Vùng giải phóng được mở rộng gắn sát với ngoại vi thị xã Hà Đông và thành phố Hà Nội. Địch chỉ còn sát với một số đoạn đường giao thông trên các quốc lộ 6.1 và gần các thành phố, thị xã.

Tuy thất bại ở nhiều nơi nhưng để trấn an tinh thần bọn tề, ngụy đang bị tan rã, đêm 16/7/1954, thực dân Pháp dùng đại bác từ Thành cổ Sơn Tây và bốt Phù Sa liên tiếp bắn phá Đường Lâm, Sơn Đông. Đặc biệt sáng 17/7/1954, quân Pháp dùng xe tăng, xe cơ giới và bộ binh có pháo binh yểm trợ gồm 200 tên tấn công vào Đường Lâm giải vây cho bốt Văn Miếu, khai thông đường Sơn Tây-Trung Hà và đón quân từ Trung Hà rút về thị xã. Chúng đi theo đường 32 và đê sông Hồng, trú quân ở gò Đồng Sấu, dùng súng cối và trọng liên bắn vào các thôn để giết hại và uy hiếp nhân dân, nhưng do vấp phải sự chống trả quyết liệt của bộ đội địa phương và du kích xã nên chúng không vào được làng. Đến chiều, địch phải rút về cố thủ trong thị xã. Đây cũng là phản ứng cuối cùng báo hiệu giờ tận số của bọn Pháp ở Sơn Tây.

Bốt Chùa Thông của địch bị tiêu diệt trong chiến dịch Bắc Sơn Tây. Ảnh: thanhuyhanoi.vn

Bốt Chùa Thông của địch bị tiêu diệt trong chiến dịch Bắc Sơn Tây. Ảnh: thanhuyhanoi.vn

Trung đoàn 57 đang chuẩn bị phương án tiến công vào các đồn, bốt địch dọc đường 11A thì nhận được tin Hiệp định Geneva đã được ký ngày 21/7/1954. Theo hiệp định, hai bên sẽ ngừng bắn vào 0 giờ ngày 1/8/1954 trên toàn Đông Dương, quân đội Pháp chấp nhận rút quân khỏi miền bắc Việt Nam trong vòng thời gian 80 ngày kể từ khi hiệp định được ký kết.

Thực hiện lệnh ngừng bắn, quân địch còn lại ở Sơn Tây được phép rút về Hà Nội để tập kết ở Hải Phòng trước khi rút vào miền Nam. Ta đã cho địch tập trung về thị xã, nằm chờ quân ta vào tiếp quản. Theo sự thỏa thuận giữa hai bên, ngày 5/8/1954 địch phải rút khỏi Sơn Tây, nhưng trước sức mạnh áp đảo của quân ta và trước khí thế đấu tranh quyết liệt của quần chúng thị xã, quân đội viễn chinh Pháp phải lặng lẽ rút khỏi thị xã trước 2 ngày. Ngày 3/8/1954, thị xã Sơn Tây được giải phóng, chấm dứt 71 năm đô hộ của thực dân Pháp (1883-1954).

 Thành cổ Sơn Tây (Ảnh: Nina May).

 Thành cổ Sơn Tây (Ảnh: Nina May).

Nhiệm vụ tiếp quản không chỉ đòi hỏi phải tiếp tục phát huy thắng lợi về quân sự mà còn phải thực hiện cho được yêu cầu to lớn là giành thắng lợi về chính trị, khẳng định lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và quân đội. Vì vậy để không xảy ra bất cứ tình huống xấu nào trong quá trình tiếp quản, cùng với tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học tập quán triệt nhiệm vụ, chủ trương chính sách quy chế, quy định, kỷ luật tiếp quản, trung đoàn 57 còn tổ chức cho anh em nghiên cứu bàn bạc kỹ các phương án, cả trường hợp thuận lợi cũng như khi địch trở mặt khiêu khích, gây khó khăn xung đột; đồng thời nghiêm túc quán triệt lời căn dặn các đơn vị bộ đội khi tiếp quản của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sĩ như: “Chớ tự kiêu, tự mãn. Chớ xa xỉ, tham ô lãng phí. Chớ rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút thuốc phiện... phải kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, đoàn kết với nhân dân... phải giữ gìn tính chất trong sạch, chất phác của người chiến sĩ cách mạng... phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Phải làm đúng 10 điều kỷ luật. Phải luôn cảnh giác và phải thực hiện tự phê bình và phê bình để tiến bộ không ngừng”.

Ảnh: thanhuyhanoi.vn

Ảnh: thanhuyhanoi.vn

Đơn vị đặc biệt chú trọng tới việc chuẩn bị cơ sở chính trị và tư tưởng cho bộ đội vào tiếp quản; thường xuyên đề cao cảnh giác, đấu tranh chống tư tưởng hòa bình hưởng lạc, không để “những viên đạn bọc đường" bắn gục những chiến sĩ cách mạng, dày dạn trong chiến đấu...

Theo kế hoạch đã định, khoảng hơn 2 giờ chiều 3/8/1954, cán bộ và nhân dân thị xã tập hợp xếp hàng đi bộ trên đường 11A cách thị xã khoảng 1km, giương cao cờ, băng rôn, khẩu hiệu tiến về chốt Nghệ thị xã (là khu vực ngã tư ở cuối phố Phùng Khắc Khoan ngày nay, gần bến xe ô-tô, nghĩa trang liệt sĩ của thị xã). Đến đầu chốt Nghệ, đoàn được đồng bào hai bên đường hân hoan, reo hò, mừng đón. Đến trung tâm thị xã gặp các đơn vị bộ đội hùng dũng từ các ngả đường tiến vào tiếp quản. Một số đơn vị đã đến trước xếp hàng ở quảng trường ngã năm (nay là khu vực vườn hoa trung tâm thị xã), đặt các loại súng máy, súng cối trước hàng quân.

Một số cán bộ trong cơ quan tuyên huấn phân công nhau đi tiếp quản Ty Thông tin của địch và tìm địa điểm bố trí Phòng Thông tin của ta. Cán bộ thị xã đã quyết định chọn ngay trụ sở tòa án ở trung tâm thị xã, cạnh Quảng trường, đối diện với Dinh Tỉnh trưởng cũ (Dinh Tỉnh trưởng khi đó nằm ở khuôn viên trụ sở Ủy ban nhân dân thị xã ngày nay).

Mọi người gấp rút treo cờ, căng khẩu hiệu, dựng pano trước nhà treo ảnh Bác Hồ, trưng bày tranh ảnh, báo chí về cuộc kháng chiến trên cả nước và trong tỉnh. Buổi tối, nhân dân tập trung ở quảng trường và vườn hoa trước Phòng Thông tin để nghe tin tức và ca nhạc rất đông. Đó là một ngày không có tiếng súng, không có những trận giao tranh dữ dội, từ các ngả mở đường cho cánh quân thần tốc tiến vào tiếp quản. Thị xã được tiếp quản trong không khí thanh bình, rộn rã với những gương mặt rạng ngời hạnh phúc. Tỉnh ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính trực tiếp tiếp nhận bộ máy chính quyền quân sự cấp tỉnh của địch. Tỉnh cử ba đoàn đặc phái viên về tiếp quản ba khu phố trong nội thị xã.

Mấy ngày sau đó, cuộc mít-tinh lớn được tổ chức ở sân vận động thị xã, các đơn vị bộ đội chủ lực tham gia cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích diễu hành qua thị xã trước khi tiến vào sân vận động. Gần một vạn người, xếp theo đội hình ngành, đoàn thể trên sân vận động trong không khí trang nghiêm.

Sau giải phóng, thị xã Sơn Tây được Tỉnh ủy Sơn Tây chỉ đạo tách khỏi huyện Thị Tùng (trong kháng chiến, huyện Tùng Thiện và thị xã được sáp nhập với nhau gọi là huyện Thị Tùng). Bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể thị xã chính thức được khôi phục, thành lập.

Trên những chặng đường lịch sử không ngừng đấu tranh cách mạng, ngày 3/8/1954 trở thành ngày truyền thống vẻ vang của Đảng bộ và quân dân Sơn Tây, đánh dấu một giai đoạn đấu tranh anh dũng, quật cường, ý chí sắt đá và tinh thần đoàn kết keo sơn, sống chết vì quê hương của Đảng bộ và quân dân thị xã trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai.

 Thị xã Sơn Tây. Ảnh: LINH PHẠM

 Thị xã Sơn Tây. Ảnh: LINH PHẠM

Trước đó, ngày 22/7/1954, Ban Cán sự thị xã được Tỉnh ủy quyết định thành lập (là tổ chức tiền thân của Thị ủy lâm thời). Thị xã ngày đầu giải phóng gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh: hàng nghìn héc-ta ruộng đất bị bỏ hoang, trâu bò bị giết hại: hệ thống mương máng, đê điều bị phá hoại nghiêm trọng; sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, giao thông vận tải, buôn bán... bị đình trệ, xóm, thôn, phố xá tiêu điều, xơ xác; tệ nạn xã hội do thực dân Pháp và phong kiến để lại hết sức nặng nề; bọn phản động, tề, ngụy do Pháp cài lại lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng, dụ dỗ, đe dọa, cưỡng ép đồng bào Công giáo di cư vào Nam.

Để khắc phục tình trạng trên, Thị ủy và Ủy ban hành chính thị xã Sơn Tây đã cử nhiều đoàn cán bộ xuống xã, khu phố, kiên trì vận động, giải thích, thuyết phục, nói rõ chủ trương, chính sách nhân đạo và tự do tín ngưỡng của Đảng, Nhà nước ta, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt, gian dối, lừa bịp, dọa dẫm của địch. Mặt khác, chính quyền đã giúp đỡ các hộ nghèo gặp khó khăn về đời sống.

Trước khi rút chạy khỏi thị xã, địch âm mưu tháo gỡ máy móc tại Nhà máy Dẫn thủy nhập điền Phù Sa (nay là Công ty Thủy lợi sông Tích) để mang đi, hòng làm tê liệt hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp của thị xã và một số huyện lân cận.

Sau ngày giải phóng, thi hành lệnh của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Sơn Tây, với tinh thần sáng tạo, quyết tâm khắc phục khó khăn, chỉ sau 24 giờ, các cỗ máy lại nhanh chóng được lắp đặt an toàn và đưa vào vận hành, đưa nước sông Hồng kịp thời tưới cho đồng ruộng, bảo đảm cho nông dân canh tác thuận lợi.

Nông dân thị xã Sơn Tây và các vùng lân cận còn lưu truyền và ngợi ca “Đây là dòng nước Cụ Hồ về với dân ta”. Nhiều xóm làng mới hôm nào còn xơ xác, tiêu điều do hậu quả chiến tranh, nay đầm ấm, yên vui. Cuộc sống đang dần hồi sinh trong khí thế nhộn nhịp, tưng bừng của ngày đầu giải phóng.

Nhiều xóm làng mới hôm nào còn xơ xác, tiêu điều do hậu quả chiến tranh, nay đầm ấm, yên vui. Cuộc sống đang dần hồi sinh trong khí thế nhộn nhịp, tưng bừng của ngày đầu giải phóng.

Bộ máy hành chính mới được thiết lập: các khu phố có ban cán sự, có trưởng tiểu khu và các ủy viên. Các xã có ban hành chính, dưới xã có thôn trưởng, xóm trưởng, có cán bộ chuyên trách từng mặt công tác như: quân sự, công an, địa chính; mặt trận và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên nhi đồng... được thành lập và đi vào hoạt động. Tối tối, trên khắp đường làng, ngõ phố, người người tấp nập mang đèn dầu, sách vở đến các lớp bình dân học vụ. Sản xuất nông nghiệp, các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống như làm thủy tinh, gốm, sành sứ, may mặc, da thuộc... được phục hồi và đi vào sản xuất. Các hủ tục trong ma chay từng bước được loại bỏ thay bằng nếp sống mới đơn giản, tiết kiệm. Tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định. Cả thị xã bừng lên khí thế náo nức xây dựng cuộc sống mới.

Bác Hồ tiếp các đại biểu nhân dân Thủ đô, ngày 16/10/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Bác Hồ tiếp các đại biểu nhân dân Thủ đô, ngày 16/10/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Giữa không khí tươi vui, nhộn nhịp của những ngày đầu giải phóng miền Bắc, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Sơn Tây nói chung, thị xã Sơn Tây nói riêng có vinh dự lớn được đón tiếp Trung ương Đảng Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô đã ở lại và làm việc tại thị xã. Trong thời gian ở đây, ngày 12 và 13/10/1954, Bác đã tổ chức cuộc họp Hội đồng Chính phủ để quyết định một số công việc đối nội và đối ngoại của Nhà nước ta(2).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ và nhân dân Sơn Tây đã vượt qua muôn vàn thử thách, khó khăn làm nên những thắng lợi to lớn, góp phần làm rạng rỡ truyền thống của Thủ đô anh hùng, dân tộc Việt Nam anh hùng. Trên những chặng đường lịch sử không ngừng đấu tranh cách mạng, ngày 3/8/1954 trở thành ngày truyền thống vẻ vang của Đảng bộ và quân dân Sơn Tây, đánh dấu một giai đoạn đấu tranh anh dũng, quật cường, ý chí sắt đá và tinh thần đoàn kết keo sơn, sống chết vì quê hương của Đảng bộ và quân dân thị xã trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Sơn Tây hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của đế quốc thực dân; nhân dân lao động vĩnh viễn xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình và phấn khởi đi vào xây dựng xã hội mới...

Thị xã Sơn Tây. Ảnh: LINH PHẠM

Thị xã Sơn Tây. Ảnh: LINH PHẠM

Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường chống giặc ngoại xâm, tinh thần lao động sáng tạo, cần cù luôn là những giá trị văn hóa, tinh thần tốt đẹp, mãi mãi là niềm tự hào của nhân dân thị xã Sơn Tây. Sơn Tây đã vinh dự được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Huân chương Chiến công hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhì.

Lễ kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng Sơn Tây, ngày 3-8-2014.

Lễ kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng Sơn Tây, ngày 3-8-2014.

 Sáu mươi năm sau ngày giải phóng, từ một thị xã nghèo nàn lạc hậu lúc mới giải phóng, Sơn Tây ngày nay đã trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng đất xứ Đoài. Không những thế Sơn Tây còn có vị trí hết sức quan trọng về an ninh, quốc phòng, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc phía Tây của thủ đô Hà Nội.

Qua chặng đường 60 năm đấu tranh và phát triển, có thể nói, thị xã Sơn Tây là một đô thị cổ của vùng đất xứ Đoài ngàn năm văn hiến, xứng đáng là vùng đất địa linh, nhân kiệt, cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội.

Chú thích:

 (1) Trung đoàn 57: Tiền thân của trung đoàn là chi đội Đội Cung, được thành lập trên đất Nghệ An từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên cơ sở các đội giải phóng quân của các huyện, thị xã lập ra trong cao trào tổng khởi nghĩa của tỉnh (hậu duệ của các chiến sĩ Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô viết-Nghệ Tĩnh). Đây là đơn vị vũ trang tập trung đầu tiên của Liên khu IV. Đến năm 1950 khi quân đội ta thành lập các Đại đoàn chủ lực thì chi đội được biên chế vào Đại đoàn 304 và mang phiên hiệu là Trung đoàn 57. Trung đoàn chiến đấu suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từ Bình-Trị-Thiên đến Tây Bắc, Việt Bắc và vùng đồng bằng, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ tại chiến dịch Điện Biên Phủ chỉ đội tiến về đồng bằng; giải phóng phần lớn phía tâny và am hai tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, tiếp quản thị xã Sơn Tây và thị trấn Phùng...

(2) Theo sách Sơ thảo lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị xã Sơn Tây (Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Sơn Tây chỉ đạo biên soạn và xuất bản năm 1985, tr.29) thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc tại thị xã, trong khu nhà Tỉnh đội của chính quyền cũ, ta tiếp quản và sử dụng (thuộc thôn Phù Sa, xã Viên Sơn, nay là phường Viên Sơn (Phòng Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội)).

Ảnh: TTXVN
Trình bày: Bảo Minh