Nhân dịp Xuân Nhâm Dần 2022, năm bản lề chuyển đổi từ tiểu vận 8 sang tiểu vận 9 (theo học thuyết Tam Nguyên Cửu Vận), xin trân trọng giới thiệu bài viết của Nhà nghiên cứu văn hóa phương Đông Nguyễn Quang Minh, về quan niệm xác định nguồn nước khi định đô.

Xa xưa, khi con người bắt đầu hình thành, phát triển theo các cấp độ khác nhau, từ thời công xã nguyên thủy, trải qua nhiều chặng đường cho đến hiện tại, việc sớm nhận biết một quy luật tự nhiên có liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại, người ta đã rút ra được những kinh nghiệm, mà những kinh nghiệm đã phải trả giá trong một thời kỳ dài, con người phát hiện rằng, mọi hành vi của con người đều liên quan đến trật tự của sáng-tối, của mặt trăng-mặt trời, của hệ thống tuần hoàn các vì sao. Khi ngẩng đầu lên, họ nhìn thấy sát vị trí của sao Bắc Cực, bên tay trái được gọi là Chùm Thanh Long. Nếu như Chùm Thanh Long đó ở đầu mùa xuân mà hạ xuống, thì năm đó là nắng hạn. Nếu Chùm Bạch Hổ bên tay phải mà ngẩng lên thì năm đó là năm mưa nhiều.

Để quan sát được cái đó, các công trình khoa học giai đoạn Bắc Sơn không có, phải chắt lọc từ quan sát tự nhiên mới rút ra được nhiều kinh nghiệm. Như thế rõ ràng, việc trả giá cho một thực tế phải kinh qua cả một thời kỳ dài. Mỗi lần trồng lúa, canh tác chăn nuôi, có năm họ thành công, có năm thu hoạch được, lặp lại nhiều lần họ phát hiện ra có những yếu tố, bên cạnh sự mong muốn đã tác động rất mạnh vào kết quả đó.

Quay trở lại với con người, cùng với sự tồn tại và phát triển của thế giới, nhìn chung mọi người đều biết lẽ tự nhiên là phải có đạo và có đức, phải có đàn ông và đàn bà. Đàn ông là dương và đàn bà là âm. Vận động giữa âm dương, giữa nam và nữ liên quan đến một trật tự theo vận động của mặt trời và mặt trăng.

Họ phát hiện rằng, tất cả năng lực của người đàn ông đều vận hành theo chiều của mặt trời, ngược lại tất cả năng lực của người phụ nữ đều vận hành theo chiều của mặt trăng. Hai chiều này vận động đồng thời cùng một lúc tạo ra chiều hướng thứ ba, mà khoa học hiện đại gọi là vùng xoắn của vũ trụ. Các ý nghĩa đó len vào các văn hóa, các tri thức, tổng kết ra một kinh nghiệm truyền khẩu.

Trải qua các thời kỳ kinh nghiệm truyền khẩu đó hình thành được viết ra, viết ra để dặn, dặn con cháu để tự vệ, để bảo vệ và phát triển cái mà quan sát được. Đến bây giờ, chúng ta cũng ghi lại những kinh nghiệm đó, các phát minh đó cho các thế hệ sau, gọi là các học thuyết.

Quay lại việc cấp và thoát nước. Cấp và thoát để chỉ hai thuật ngữ vào và ra, một nguyên tắc từ xưa đến nay, trong xây dựng bất kỳ một thủ đô hay đất nước cho đến ngôi nhà chúng ta đang ở. Việc vào và ra, hay theo chuyên ngành là cấp và thoát nước, cấp là vào và thoát là ra. Để vắn tắt, người ta cũng lấy theo luật của dân gian, tức là “vào cha ra mẹ”. Người ta muốn xây dựng trường tồn một thể chế, thậm chí những thể chế quân chủ hay phong kiến tồn tại đến 500 năm, mà họ vẫn lãnh đạo đời này qua đời khác, bền vững và dân sinh thái bình, không có các biến cố thì rất ít. Tất cả các tranh chấp trong đời sống cũng không xảy ra nhiều, phát triển theo lịch sử tất yếu của nhân loại.

Rõ ràng, việc quan sát tự nhiên có liên quan đến trật tự phát triển của loài người, có quan hệ mật thiết - “vào cha ra mẹ”. Người ta biết rằng, khi tạo các công trình để cấp nước, thường họ sẽ khởi công và kết thúc vào buổi sáng, bởi vì buổi sáng là đường vào của mặt trời và buổi chiều là đường ra của mặt trời. Các công trình thoát nước thường thi công và kết thúc vào buổi chiều. Nếu áp dụng máy móc thì không có lý thuyết nào yêu cầu phải buổi sáng hay buổi chiều, nhưng căn cứ theo các định nghĩa mang tính quan sát, buổi sáng là mở-là vào, là cấp, là tiến, buổi chiều là lui, là thoát. Trong nhân sự, chiều là mẹ, sáng là cha - “vào cha ra mẹ”.

Như vậy, cấp thoát nước theo quan niệm của người xưa, là một hệ thống xương sống để chi phối toàn bộ các hoạt động, trong đó có cả ý nghĩa về mặt triết học, ý nghĩa về mặt thực tiễn phát triển của con người, do vậy mà tính nghiêm khắc, kỷ luật, chấp hành và chính xác là tiêu chí quan trọng, là một trong những mảng miếng quyết định sống còn trước sự phát triển của một quốc gia, của một vùng miền, và nhỏ hơn là một ngôi nhà.

Về phong thủy, bên trái Thanh Long là nơi đưa nước vào trong nhà, bên phải Bạch Hổ là đường thoát nước ra. Một ngôi nhà còn phải vào và ra theo đúng một trật tự như cấu trúc để xây dựng một công trình khoa học trong hệ thống cấp thoát nước. Bên cạnh những thành tựu của khoa học hiện đại, chúng ta cũng cần chú ý thêm những kinh nghiệm hàng nghìn năm đã được đúc kết từ lúc thô sơ nhất, bởi vì không có cái thô sơ ngày hôm qua sẽ không có những công trình hiện đại ngày hôm nay.

Cấp thoát nước chúng ta gọi là một chữ, nghe thì có vẻ thủ công đơn giản và không có ảnh hưởng gì đến con người chúng ta. Trong cuộc sống, chúng ta thường chỉ hỏi nhau rằng: “Anh có bao nhiêu tiền? Anh có bao nhiêu con cái? Thành tựu của anh có những cái gì?”. Khi hỏi “cơ thể của anh có cái gì khỏe, chủ thể của anh cái gì yếu?, vạn vật là như vậy, bởi vì nó chỉ ẩn náu khác với những gì chúng ta thấy bên ngoài của sự vật.

Trước khi bàn về ảnh hưởng của hệ thống nước trong một quốc gia thì phải bàn về con người trước. Máu khi vận hành để nuôi cơ thể, chúng ta đều biết rằng đây là các dòng chảy, tự nhiên có bao nhiêu những nhánh đi trong cơ thể chúng ta. Người phương Đông đã ví chúng ta là tiểu vũ trụ, có sông có biển trong cơ thể, có mặt trăng-mặt trời trong cơ thể, có ngũ hành trong cơ thể. Tức là tất cả thế giới bên ngoài vận động có những gì, cơ thể của chúng ta cũng chứa đựng từng ấy thứ. Nếu máu không vận động trong cơ thể thì cơ thể đó không tồn tại. Chỉ có điều, chúng ta hiểu nước trong thế giới không thuộc cơ thể thì được nhìn nhận thế nào?

Một quốc gia mà phải di chuyển rất nhiều vị trí để tìm và lập kinh đô, bởi vì họ cần phải biết rằng, trong thuật ngữ của phương Đông, họ đã chọn được những vị trí tương ứng của tự nhiên có liên quan chặt chẽ để hỗ trợ cho những người lãnh đạo. Họ biết rằng nước và núi, tức là một vị trí tĩnh là núi và động là nước có liên quan chặt chẽ đến độ phát triển và tư duy. Họ lý giải theo một ngôn ngữ của từng thời kỳ khác nhau, nhưng bản chất từ xa xưa cho đến bây giờ, người ta đã nhìn thấy tầm ảnh hưởng của khí hậu, của nước, của núi vẫn luôn có tầm ảnh hưởng lớn. Một đế vương sẽ biết được nước ở vị trí nào sẽ phát động, khoáng đạt hơn, họ giỏi hơn, họ đưa dân giàu nước mạnh. Nhưng một nhà buôn ngày xưa hay một doanh nghiệp thương mại bây giờ, họ biết rằng nước nằm ở vị trí nào họ sẽ thu hoạch được nhiều kết quả về tiền bạc, về sản phẩm bởi vì họ biết rằng, các lý thuyết vẫn nói rằng nước là biểu trưng cho tiền bạc, sơn quản nhân (sơn là núi), thủy quản tài (thủy là nước). Rõ ràng, tầm ảnh hưởng của các khái niệm chữ họ biết rằng, nó có liên quan chặt chẽ thế nào.

Hồ Tây. (Ảnh: Lê Việt/BND)

Hồ Tây. (Ảnh: Lê Việt/BND)

Trước mắt nói tại nước ta, Thăng Long là một thí dụ, trong ngũ hành, Kim phương vị là tây, Thủy phương vị là bắc, Hỏa phương vị là nam, Thổ là Trung ương, gồm hai vùng tây nam và đông bắc. Ai cũng biết rằng, cái nguồn để đẻ ra ra toàn bộ tài sản chính là Kim trong phương vị tây, thì Thăng Long của chúng ta có nơi chứa, nơi vào là hồ Tây. Hồ Tây là hồ chủ lớn nhất từ xưa đến nay, lấy tài sản tiền bạc của người mẹ bởi vì nguồn từ sông Hồng vào hồ Tây chính là đường dẫn. Sông Hồng là sông cái, là mẹ nước, tức là nước nhiều nhất chảy từ phương bắc, do vậy mà cha ông ta đã rất khôn ngoan chọn vị trí hồ Tây tại phương vị tây so Thăng Long để đưa nguồn nước từ phương bắc vào phương tây để tạo thành một cái thế là Kim sinh Thủy. Từ chỗ chứa, từ cái kho rất nhiều tiền bạc tại hồ Tây, từ hồ Tây sẽ có những đường nhánh, trong đó có sông Tô Lịch và một số những sông nhỏ. Như vậy, từ “hồ cái” đó sẽ chi phối các dòng nước, theo thuật ngữ bây giờ là những lưu thông để tránh ách tắc gây ra dòng nước quẩn, đục bẩn. Người xưa cho rằng, khi gây ách tắc thì tài khí sẽ không lưu thông, không có kết quả. Về mặt thực tiễn được tổng kết, người ta phát hiện rằng túi tiền của họ có liên quan mật thiết đến sự khai thông của các dòng nước, đó là chưa bàn đến ngập lụt, mất vệ sinh môi trường.

Lịch sử của Thăng Long cũng “đói” rất nhiều và họ phát hiện có sự trùng lặp rằng, cứ mỗi lần như thế thì xác người và rác rưởi gây ách tắc các cống rãnh. Không phải sự ách tắc cống rãnh gây tắc nghẽn các đường nước rút, nhưng các hiện tượng đó nếu như quan sát đều có sự ăn nhập với sự phát triển hoặc suy vong trong từng giai đoạn.

Văn minh châu Âu đã rọi sáng tới khoảng thời gian khi Pháp vào đô hộ chúng ta. Thực ra, họ vận dụng kiến thức kiến trúc của phương Đông để phù hợp từ thời tiết, khí hậu, nhưng họ cũng biết rằng nếu để cho một thành phố thanh lịch, phát triển, theo cách hiểu khoa học của người phương Tây, hệ thống thoát nước phải rất khoáng đạt thì mới bảo vệ được những thành tựu của họ. Do vậy, những nơi cấp thường cao với biểu trưng là núi, những nơi thoát thường thấp, phải chìm. Các nguyên tắc, trật tự từ trước cho tới nay, theo tôi đánh giá thì người Á Đông hay người phương Tây đều có cách nhìn giống nhau, chỉ có điều cách giải quyết thì phù hợp với cách giải quyết của từng quốc gia, của từng văn hóa các châu lục hoặc vùng miền. Hay nói nhỏ hơn là văn hóa của từng ngôi nhà trên toàn thế giới họ có những nguyên tắc riêng của mình. Nhưng cái chung, tức là cái thống nhất đều xác định rằng nơi vào và nơi ra đều có một cấu trúc rất rõ rệt, hoặc truyền thống hoặc hiện đại, nhưng về bản chất thì đều giữ nguyên. Tất cả những nơi mà phá vỡ những nguyên lý mà được khái quát giữa truyền thống và đương đại, đều phải trả giá đắt trên toàn diện.

Trong quan điểm của triết học phương Đông, nước mưa được gọi là nước không nguồn. Nếu người ta lấy nước làm biểu tượng cho tiền bạc, nếu sử dụng được nước không nguồn vào đúng thời điểm thì coi như tài sản không có gốc gác vẫn có tài sản. Nếu chúng ta dùng giếng khơi, giếng đào tức là nước từ mẹ đưa lên chứ không có tầm ảnh hưởng của cha. Do vậy, chúng ta cần biết rằng đến khi con người phát triển đến cấp độ văn minh, chúng ta khai thác được các dòng nước âm dương, tức là dưới thì có nước trên thì có mặt trời, nước đó mới giải quyết tốt được cho vạn vật, sự tích lũy về tài sản mới bền vững. Thế giới được phát triển bền vững cho đến ngày hôm nay không phải là phát triển ngẫu nhiên mà nó có sự đóng góp của toàn diện các yếu tố văn hóa, trong đó có quan niệm về nước. Nếu đào nước trong lòng đất tốt thì như là mẹ cho tiền không sợ vì mẹ là đất nhưng thiếu đi công của cha, tức là trời, thì chỉ là một cách cho giấu diếm bởi vì bản chất nước nằm trong lòng đất đã là sự giấu diếm. Nếu như nước đó, tài sản đó, tiền bạc đó thuận được ý cha, thuận được lòng mẹ thì tài sản đó mới bền vững.

Do vậy, trong quá trình phát triển dần thì họ phát hiện ra một điều rằng, lý tưởng nhất là không cần lao động nhọc nhằn để có “bổng lộc rơi vào đầu”, đấy chính là nước không nguồn. Do vậy, nước không nguồn được sử dụng trong rất nhiều hình thái, kể cả trong các tôn giáo, tín ngưỡng thường sử dụng nước này chứ họ cũng không sử dụng nước giếng, nước ở trên cao. Xác định cách nhìn triết học của người Á Đông truyền thống thì một vùng nước trong sạch, nước phẳng nằm dưới chân núi, đấy là nước tốt nhất. Nước trên đỉnh núi cũng hạn chế như nước dưới lòng đất. Sau này nước khai thác của chúng ta ngày hôm nay chính là nước đạt tiêu chuẩn theo quan điểm của truyền thống, là nước âm dương.

Tài sản của vua sẽ khác tài sản của thị dân. Cả hai yếu tố đặc biệt đều không lệ thuộc vào kích thước mà lệ thuộc vào vị trí. Vị trí quân vương thì nước sẽ nằm ở vị trí nào, vị trí của thị dân chỉ được phép đào ở đâu. Đông người thì đào giếng to, ít người thì đào giếng nhỏ. Nếu như trong nội tộc nhà vua và những yếu tố không cần phải đào rộng thì họ chỉ đào vừa phải để lấy ý đây là tài sản của đất nước, dòng tộc, nói tóm lại là tài sản của quân vương. Còn làng mạc, thị xã hay những nơi mà quan phủ, quan chi huyện thì chỉ được đào vào các vị trí như thế nào. Một ông quan huyện mà đào vào vị trí cung càn, càn là vua, hay phương vị đọc là phương bắc 285 độ trên la bàn thì ngày xưa người ta sẽ bắt ngay vì cái này là vi phạm luật pháp. Chỉ có vị trí nước không thôi còn quan trọng như thế nào, còn có thể bị truy tố. Vị trí đào giếng không hề là việc đơn giản, không thể không quan, đóng vai trò là xương sống. Trong một hệ thống tri thức, tất cả kết quả của toàn nhân loại cuối cùng để ra chữ cấp thoát nước này. Không phải thuần túy hiểu một cách máy móc, thậm chí đơn giản đến mức là đi tìm một nơi cấp nước đưa vào thành phố rồi thải ra thì mang nó đi đâu?

Ban đầu đây là một hệ thống triết học quan trọng và nó đóng góp gần như là then chốt cho việc phát triển hay không phát triển theo cách đánh giá của người phương Đông truyền thống trước đây, chứ nó không hề đơn giản như chúng ta nghĩ. Nó cần phải có một trật tự, mang tính logic cao, một trật tự vào và ra. Nếu làm tốt, có một sự thống nhất trong bảo dưỡng, sửa chữa và quản lý thành một hệ thống thì nó không bị chắp vá và mang tính thống nhất rất cao. Tất cả các nguồn về kinh thành, về Hà Nội thì ở đâu về, về chỗ nào và ở đâu ra, ra ở đâu thì chúng ta xử lý mọi chuyện mang tính thống nhất, chắc chắn sẽ mang những kết quả tốt hơn.

Những dòng nước xưa phục vụ cho việc sử dụng dân sinh, không phục vụ giao thông, phục vụ mang tính biểu tượng tâm linh?

(Ảnh: TTXVN)
(Ảnh: TTXVN)

Giếng Ngọc gắn bó với đời sống của người dân làng Diềm từ xưa đến nay. (Ảnh: S Viet Nam)

Giếng Ngọc gắn bó với đời sống của người dân làng Diềm từ xưa đến nay. (Ảnh: S Viet Nam)

Giếng Ngọc trước Đền Cùng đến nay vẫn được lưu truyền nhiều huyền tích. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc trước Đền Cùng đến nay vẫn được lưu truyền nhiều huyền tích. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc an yên một mảnh hồn làng. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc an yên một mảnh hồn làng. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Những khối gạch đá ong phủ màu rêu theo năm tháng. (Ảnh: ngaynay.vn)

Những khối gạch đá ong phủ màu rêu theo năm tháng. (Ảnh: ngaynay.vn)

Item 1 of 4

Giếng Ngọc gắn bó với đời sống của người dân làng Diềm từ xưa đến nay. (Ảnh: S Viet Nam)

Giếng Ngọc gắn bó với đời sống của người dân làng Diềm từ xưa đến nay. (Ảnh: S Viet Nam)

Giếng Ngọc trước Đền Cùng đến nay vẫn được lưu truyền nhiều huyền tích. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc trước Đền Cùng đến nay vẫn được lưu truyền nhiều huyền tích. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc an yên một mảnh hồn làng. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Giếng Ngọc an yên một mảnh hồn làng. (Ảnh: Lê Bích/Mytour)

Những khối gạch đá ong phủ màu rêu theo năm tháng. (Ảnh: ngaynay.vn)

Những khối gạch đá ong phủ màu rêu theo năm tháng. (Ảnh: ngaynay.vn)


Tất cả chi phối của các dòng nước, chỉ nói trong kinh thành Thăng Long là một thí dụ, hồ Tây được ví như là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là nơi chi phối toàn bộ các nguồn tài lộc cho Thăng Long. Nhưng thật ra các mạch máu của nó không phải chỉ hồ Tây, cái xương của sông Tô Lịch là biểu trưng cho quyền uy, nhân tài nằm ở sông Tô Lịch. Đây là một sông dẫn, ngoài việc tạo nên tài khí cho dân sinh, nó còn là một biểu trưng vương quyền của nhà vua và những người đang cai trị.

Sông Tô Lịch ngày xưa là một sông linh thiêng, quan trọng như vậy nên có nhiều đền thờ, tạo nên các tập tục tín ngưỡng chung quanh sông này. Đây là một sông quan trọng, không thể để ô uế. Ngày xưa họ nghiêm ngặt cái này. Kèm theo bên cạnh có nhiều kênh mương-cũng chỉ để tưới tiêu vì trong lòng Hà Nội lúc đó không đặt vấn đề canh tác là thiết yếu. Nhưng các kênh mương, cống rãnh trong lòng thành phố đều biểu trưng cho phát triển và thịnh vượng của dân chúng trong kinh thành Thăng Long.

Do vậy, khái quát chỉ đơn thuần là cấp và thoát nước, cần biết rằng vùng đất Thăng Long vài trăm năm trước không đông người như ngày nay cho nên không có nhu cầu cấp và thoát nước lớn đến như thế. Rõ ràng, việc các kênh mương cống rãnh ngoài một số sông, hồ quan trọng trong thành phố thì việc đó còn mang một ý nghĩa cao hơn thế rất nhiều. Vì vậy, cấu trúc trật tự của đô thị chúng ta cách đây vài trăm năm, thậm chí hàng nghìn năm, là hệ thống nước vào và nước ra là đặc biệt quan trọng.

Đoạn sông Tô Lịch chưa bị lấp chảy ngang qua Cửa Bắc. (Ảnh tư liệu: Bác sĩ Charles-Edouard Hocquard, chụp những năm 1884 -1885)

Đoạn sông Tô Lịch chưa bị lấp chảy ngang qua Cửa Bắc. (Ảnh tư liệu: Bác sĩ Charles-Edouard Hocquard, chụp những năm 1884 -1885)

Sông Tô Lịch xưa dài 30km và là giao thông đường thủy quan trọng từ phía đông nam vào thành Thăng Long. (Trong ảnh: Sông Tô Lịch năm 1885)

Sông Tô Lịch xưa dài 30km và là giao thông đường thủy quan trọng từ phía đông nam vào thành Thăng Long. (Trong ảnh: Sông Tô Lịch năm 1885)

Bước đầu tiên của một quốc gia khi lập ra kinh đô là phải tính được đường nước vào và bước cuối cùng của việc hoàn thiện sự hình thành một kinh đô thì phải tính được đường nước ra. Tại Hà Nội, trục đông tây của thành phố chạy từ Kim Mã lên Ba Vì và trục nam bắc tính từ chợ Cửa Nam chạy một mạch vào TP Hồ Chí Minh. Bốn vị trí này được gọi là tứ chính, được xác định là bốn ông vua để cai quản và gìn giữ cho đất nước chúng ta hùng mạnh như đến bây giờ. Trong lòng nó bị phá vỡ thì chỉ tạo, chỉ làm giảm các hạn chế xuống. Một ngôi nhà cũng vậy, tiêu chí đầu tiên là phải tìm cho ra vị trí nước vào trước, nó quan trọng như đường vị trí ra, phải xác định được hai vị trí này đã. Hai vị trí này xong rồi mới tính đến hệ thống kiến trúc trong lòng.

Điều gì đặc biệt ở vị trí của Thăng Long-Hà Nội liên quan đến những khái niệm về nước, về thủy, về tài?


Nếu nói theo ngôn ngữ truyền thống, tài khí không thuần túy chỉ là nước vật chất mà chúng ta đang dùng bởi vì bản thân khi các con đường được dẫn từ các phương vị có liên quan để tạo nên nước thì người xưa đã vận dụng rất thông minh. Họ không chỉ dùng nước, họ dùng các thảm, trong đó ra khỏi bốn bờ đê bây giờ, trong đó có đê Đại Cồ Việt, đê La Thành… qua những đê đó là ngoại thành. Họ đã mượn được các thảm thực vật, trong đó có các cánh đồng lúa, cánh đồng hành, riềng, tỏi… được trồng xung quanh Thăng Long. Về tài khí, họ cũng biết trộn các vùng cao để chi phối nước dội về và dùng vùng thấp để làm vị trí thoát nước ra. Vùng Yên Sở là một thí dụ, đây chính là các vùng đưa nước thoát ra khỏi Thăng Long. Vào ở Hồ Tây, ra ở Yên Sở.

Tất cả các trục vào-ra này được xác định theo đúng nghĩa là “vào cha ra mẹ”, chính là các nguyên tắc của ông cha mình khi sử dụng trong việc vận hành nước trong Thăng Long. Thế còn tại sao gọi Thăng Long là đất lành là bởi trong lòng của nước chúng ta đã được kế thừa, thừa hưởng tài sản vô hình. Nước ngọt nhất nước ta, không chát, không vị.

Các chuyên gia phong thủy hay các thầy phong thủy, địa lý ở nhiều thời kỳ đã thừa nhận rằng, khi thè lưỡi liếm đất tại kinh thành Thăng Long thì nước ngọt nhất, trong tất cả các châu không có châu nào ngọt hơn cả. Người ta nhận biết rằng, dải đồng bằng sông Hồng đã thẩm thấu toàn bộ các hương liệu của nước phù sa sông Hồng. Nhưng cũng tại tiểu vùng khí hậu này thì nước mới ngọt thế. Nước thuộc thủy, ngọt thuộc thổ, thổ thì còn nhân, còn con người, mà thủy thì còn tài khí. Chỉ có đất này nhân tài mới có. Đấy chính là lý do mà đến cuối cùng chúng ta giữ Hà Nội là Thủ đô cho đến bây giờ là có căn nguyên chứ không phải tự nhiên người ta chọn đất ở đây làm thủ đô. 

Các yếu tố quan trọng của nước khi kết cấu, nó còn là một tiêu chí để chọn thủ phủ của một quốc gia, chứ không hề đơn giản như các anh nghĩ về cấp thoát nước chỉ là một giá trị đơn giản để có thể tùy tiện làm chỗ nào thì làm, phá chỗ nào thì. Phải có một nền tảng học thuật chắc chắn từ nền móng, đắp lên các câu chuyện trên là những khái niệm nhất định để chúng ta nhấn mạnh rằng, cha ông của chúng ta đã phải lưu tâm rất nhiều về hệ thống nước vào và nước ra.

Ngày hôm qua người ta giữ được mấy nghìn năm cho đến bây giờ và từng bước phát triển, các anh trong quá trình thực hiện giữa vào và ra hay cấp và thoát mà thiếu chắt lọc thì cũng chỉ gây khó khăn trong phát triển lúc đó chứ không quyết định được cái sống còn. Bởi vì, thực tế rằng cấp thoát nước có ách tắc thì Thủ đô Hà Nội vẫn đang là thủ đô của một đất nước tại đây. Và các giai đoạn nào được quan tâm thì giai đoạn đó phát triển, giai đoạn nào cẩu thả, không cho đó là một việc quan trọng thì giai đoạn đó gặp khó khăn.

Trong bất kỳ thể chế nào, đào tạo trong các trường ở mọi thời kỳ, các tri thức được lĩnh hội như nhau bởi vì ông giáo dạy 100 học sinh, thì 100 học sinh đều được học một công thức. Chúng ta đều là con người bình đẳng, loại trừ các yếu tố chỉ bàn về vật chất thì giống như nhau, tạm thời ở mức độ tiếp nhận thì là như nhau. Nhưng khi phân bố sau khi học xong thì chỉ có những nơi mới có nhiều tiến sĩ, có những nơi không có, chỉ vứt sách đấy đi làm việc khác, việc này chúng ta chưa quan sát hết thôi.

Quan sát các vùng có nhiều tiến sĩ hay người học giỏi sẽ thấy có những vùng chỉ giỏi toán, có những vùng chỉ giỏi văn. Những vùng có nhiều tài năng quân sự thì thường các vùng có vị trí nước nằm ở phương chính nam hoặc phương nam của nơi sinh sống của người đó. Những người mà giỏi văn chương thì thường hệ thống nước ở vùng tây.

Các nhà khảo cổ học chỉ mới phát hiện ra cái giếng chứ chưa bao giờ hỏi rằng cái giếng này nằm ở bao nhiêu độ la bàn và cũng chưa bao giờ so sánh cái giếng đó với kinh thành Thăng Long nằm ở đâu? Ngày xưa người ta đã dùng Thăng Long làm tâm và họ tìm thông tin căn cứ theo sự phát triển của vùng đó.

Thí dụ, vùng này có rất nhiều người giỏi võ, muốn trở thành một quan võ để phụng sự đất nước, phụng sự triều đình. Họ sẽ tìm bằng được các vùng nước động, di dần về phương nam. Khi đào ở đấy, tương lai sẽ có những cái thai, hay người phụ nữ sẽ sinh ra được những con người, mà chính những con người đó sau này sẽ thừa hưởng nguyên khí của giếng phương nam này, thường là những người rất tinh thông về võ lược. Thầy giáo dạy một thì người ta hiểu mười. Do vậy trong các khảo cổ, thỉnh thoảng có các chất mà rất mê hoặc, nhưng là một học thuật có tính toán rất chi tiết.

Giếng nước thời Trần trong Hoàng thành Thăng Long.

Giếng nước thời Trần trong Hoàng thành Thăng Long.


Dấu tích đường thoát nước trong khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu. (Ảnh Huy Anh)

Dấu tích đường thoát nước trong khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu. (Ảnh Huy Anh)

Dấu tích giếng cổ thời Lý. (Ảnh Huy Anh)

Dấu tích giếng cổ thời Lý. (Ảnh Huy Anh)

Lại một lần nữa có liên quan đến vị trí nước vào và nước ra, giống như chúng ta đã biết, chưa có một cái ao làng nào trong cái làng của người bắc Việt Nam mà thiếu viên đá đặt ở dưới cầu ao của cả làng để giặt. Bởi vì viên đá đó ngoài việc trấn áp tất cả các sát khí của bốn phương tạo nên, mà viên đá đó còn là một niềm mong ước là trong làng của mình sẽ có những tài năng, những tài nhân xuất hiện tại đó. Do đó mà diệt họa trừ tai mang phúc vinh đến chín viên đá mà trong bất kỳ cái ao làng quê nào đều xuất hiện ở đó. Muốn phát triển thì nước vào và nước ra, tức hệ thống cấp và thoát, tôi cho rằng là một học thuật cần thiết, gần như là nền tảng đầu tiên trong bất kỳ công trình kiến trúc nào kể cả đương đại. Từ cấp thoát nước cho giao thông, cấp thoát nước cho đường bộ, cấp thoát nước cho dân sinh thì tất cả các yếu tố này phải có một trình tự thuyết phục.

Với quan niệm của tôi thì cần phải kế thừa được kinh nghiệm chọn lọc của người xưa, của tiền nhân và kết hợp với tất cả điều kiện hiện đại nhất của thực tiễn bây giờ hài hòa và phù hợp với sinh hoạt của người Việt trong tiềm thức truyền thống, lại được trang bị thêm các khí cụ hiện đại nhất thì chúng ta đạt được nhiều thành tựu.

Nhà nghiên cứu văn hóa phương Đông Nguyễn Quang Minh

Chỉ đạo sản xuất: Ngọc Thanh
Tổ chức thực hiện: Xuân Bách
Nội dung: Nhà nghiên cứu văn hóa phương Đông Nguyễn Quang Minh
Ảnh: TTXVN, Tư liệu, Lê Việt, MyTour...
Trình bày: Phùng Trang
Ngày xuất bản: 1/2/2022