TIN TƯỞNG Ở TẦM NHÌN, ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC; CHUNG LÒNG CHUNG SỨC ĐƯA ĐẤT NƯỚC BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ, BỀN VỮNG, TẤT CẢ VÌ DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, VĂN MINH
PGS, TS. Nguyễn Thế Kỷ
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng,
nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam,
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương
Ngày 31/10/2024, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3). Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa XIII thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tôi đã đọc và nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm túc, bày tỏ sự đồng tình, tin tưởng ở tầm nhìn, định hướng chiến lược, những nội dung quan trong, mới mẻ mà Đảng ta và Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra khi đề cập đến khái niệm “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, “cơ sở định vị mục tiêu, nhiệm vụ”, “7 định hướng chiến lược” đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Là một cán bộ cấp cao của Đảng, một nhà khoa học, một văn nghệ sĩ từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), từng là Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương và hiện là Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, tôi đã đọc và nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm túc, bày tỏ sự đồng tình, tin tưởng ở tầm nhìn, định hướng chiến lược, những nội dung quan trong, mới mẻ mà Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra khi đề cập đến khái niệm “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, “cơ sở định vị mục tiêu, nhiệm vụ”, “7 định hướng chiến lược” mà đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra.
1.Đồng tình với tầm nhìn, cách xác định và lý giải các khái niệm “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” của Tổng Bí thư “Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội-văn hóa-chính trị-tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường”...
“Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”. “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”.
Đích đến của kỷ nguyên mới, theo Tổng Bí thư Tô Lâm xác định là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
So với việc chuẩn bị tổ chức các kỳ đại hội Đảng nhiều năm qua, đây là kỳ đại hội chúng ta có sự chuẩn bị công phu, tâm huyết, mang tầm chiến lược, tầm đổi mới có tính hệ thống, tính nền tảng không chỉ cho chăng đường 5 năm, 10 năm mà cho cả một “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
“Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu”.
-Tổng Bí thư Tô Lâm-
2. Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, theo Tổng Bí thư Tô Lâm là những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo, “Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm.
Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc”.
Quy mô nền kinh tế Việt Nam năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc.
Tổng Bí thư nhấn mạnh: Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc. Đây là thời điểm hội tụ tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.
Hà Nội - Điểm đến an toàn của du khách sau đại dịch COVID- 19. (Ảnh: Tapchicongsan.org.vn)
Hà Nội - Điểm đến an toàn của du khách sau đại dịch COVID- 19. (Ảnh: Tapchicongsan.org.vn)
Đường Võ Nguyên Giáp - trục đường chính từ sân bay quốc tế Nội Bài vào trung tâm Hà Nội được trồng nhiều tầng cây xanh, tạo nên ấn tượng trong mắt người dân cũng như khách nước ngoài về một Thủ đô Hà Nội khang trang, đẹp và dịu mát. (Ảnh: TTXVN)
Đường Võ Nguyên Giáp - trục đường chính từ sân bay quốc tế Nội Bài vào trung tâm Hà Nội được trồng nhiều tầng cây xanh, tạo nên ấn tượng trong mắt người dân cũng như khách nước ngoài về một Thủ đô Hà Nội khang trang, đẹp và dịu mát. (Ảnh: TTXVN)
Cảng biển Hải Phòng được xếp là Cảng biển loại Đặc biệt. (Ảnh: haiphong.gov.vn)
Cảng biển Hải Phòng được xếp là Cảng biển loại Đặc biệt. (Ảnh: haiphong.gov.vn)
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay khoác trên mình vẻ đẹp của một đô thị hiện đại, năng động, đầy sức sống. (Ảnh: TTXVN)
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay khoác trên mình vẻ đẹp của một đô thị hiện đại, năng động, đầy sức sống. (Ảnh: TTXVN)
3. Không chỉ khẳng định sự cần thiết phải đổi mới mạnh mẽ, dứt khoát tư duy, tầm nhìn chiến lược, Tổng Bí thư Tô Lâm còn nêu rõ 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc:
1. Cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng
2. Tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
3. Tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả
4. Đẩy mạnh chuyển đổi số
5. Chống lãng phí
6. Đổi mới công tác cán bộ
7. Đổi mới, phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình
1. Cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng
Đó là “cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng”. Cùng với những nỗ lực và thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, đổi mới, phát triển và từng bước hoàn thiện phương thức lãnh đạo, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, chúng ta cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế như tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp...
Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh.
Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định...
Từ thực tế đó, Tổng Bí thư Tô Lâm xác định phải thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.
Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Trong đó, nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp.
Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý. Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành, quán triệt và thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng.
Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi.
Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực.
2. Tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Tổng Bí thư yêu cầu phải tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Khắc phục các yêu kém, khuyết điểm như một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế.
Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong nhân dân.
Tổng Bí thư chỉ rõ: trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, đặt ra yêu cầu cấp thiết phát huy tính đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Tập trung chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.
Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc, không quá dài.
Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp.
Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”.
Đặc biệt là tầm nhìn mới, khoa học và cách mạng: Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh...) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.
3. Tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định phải đổi mới và tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Theo Tổng Bí thư, hiện nay 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy, trong khi đó, công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để. Do đó, chủ trương chiến lược là tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước.
Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động.
Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. Đây là một cuộc cách mạng hết sức quan trọng, đòi hỏi nhiều ý chí, quyết tâm, cách làm sáng tạo, mạnh mẽ.
4. Chuyển đổi số
Tổng Bí thư khẳng định phải đẩy mạnh chuyển đổi số, xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số; nêu các giải pháp chủ yếu, tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.
5. Chống lãng phí
Định hướng, giải pháp thứ 5 mà Tổng Bí thư nêu ra là chống lãng phí. Theo Tổng Bí thư, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”.
Tình trạng lãng phí hiện nay diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng cho phát triển (gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước).
Những biểu hiện cụ thể là chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực. Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt.
Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, của đất nước do bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm; do chất lượng, năng suất lao động thấp.
Lãng phí tài nguyên thiên nhiên; lãng phí tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả.
Lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức.
Lãng phí do hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ, một số chưa phù hợp thực tế nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung.
Giải pháp chiến lược những năm tới là: Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế-kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước.
Giải quyết dứt điểm tồn đọng kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; các ngân hàng thương mại yếu kém.
Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”.
6. Tập trung đổi mới công tác cán bộ
Định hướng và nhóm giải pháp thư 6 mà Tổng Bí thư nêu ra là tập trung đổi mới công tác cán bộ.
Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết. Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được.
Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín.
7. Đổi mới, phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình
Tổng Bí thư đặc biệt quan tâm đổi mới, phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình.
Tập trung đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản.
Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo).
Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.
Tin tưởng ở tầm nhìn, định hướng và một số giải pháp chiến lược mà Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra, tới đây sẽ được thể hiện đầy đủ và sâu sắc hơn trong các dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng; tạo cơ sở chính trị, cơ sở khoa học và thực tiễn cho chặng đướng phía trước của đất nước ta; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần chung lòng, chung sức trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới phát triển mạnh mẽ, bền vững, tất cả vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương chủ trì, phối hợp Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản tổ chức ngày 15/11/2024.
TRÌNH BÀY: BIỆN DIỆU