
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; là kết tinh sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, khối đại đoàn kết toàn dân, của nghệ thuật quân sự Việt Nam… Đồng thời, chứng minh chân lý: Một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế chưa phát triển, quân đội còn non trẻ, vũ khí trang bị còn thô sơ, nhưng biết đoàn kết một lòng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được nhân dân tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ có thể đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Sức mạnh và giá trị của chân lý đó đến nay và mai sau vẫn còn nguyên tính thời sự. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên ngành Kỹ thuật phải tiến hành bảo đảm một khối lượng rất lớn vũ khí trang bị cho lực lượng bộ đội chủ lực tham gia chiến dịch, gồm: 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh-pháo binh 351…
Từ thực tiễn thành công trong hoạt động của lực lượng kỹ thuật cho Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định rõ bài học về phát huy tinh thần sáng tạo trong bảo đảm kỹ thuật của Quân đội ta:
Một là, tổ chức, huy động phương tiện và bảo đảm kỹ thuật tốt cho lực lượng vận tải cơ giới phục vụ trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch
Việc tổ chức, huy động phương tiện và bảo đảm kỹ thuật cho Chiến dịch Điện Biên Phủ là điều kiện vô cùng quan trọng để tiến hành chiến dịch, vì vậy Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chỉ đạo tập trung mọi nguồn lực nhằm đẩy mạnh xây dựng và thực hiện công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm kỹ thuật tại chỗ, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ quân sự.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ việc tổ chức huy động phương tiện và bảo đảm kỹ thuật tốt cho lực lượng vận tải cơ giới đã thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo trong tổ chức bảo đảm kỹ thuật. Để thực hiện phương châm “đánh chắc, tiến chắc” nhu cầu bảo đảm về vật chất, kỹ thuật cho Chiến dịch lên tới 1.455 tấn đạn, gần 15.000 tấn gạo. Đây là lượng đạn, lương thực lớn nhất kể từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà ngành Hậu cần-Kỹ thuật phải bảo đảm cho một chiến dịch; đồng thời lại phải vận chuyển trong điều kiện chiến trường ở xa hậu phương lên đến 600km, địa hình rừng núi hiểm trở, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địch tập trung đánh phá ác liệt trên các tuyến trọng điểm.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ việc tổ chức huy động phương tiện và bảo đảm kỹ thuật tốt cho lực lượng vận tải cơ giới đã thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo trong tổ chức bảo đảm kỹ thuật.
Để thực hiện được nhu cầu vận chuyển vật chất trên, ngoài việc huy động lực lượng bộ đội, dân công và thanh niên xung phong phục vụ hỏa tuyến, ta đã phát huy tinh thần sáng tạo trong bảo đảm kỹ thuật bằng cách động viên một số lượng rất lớn phương tiện vận tải cơ giới và thô sơ như: ô-tô, tàu thuyền, bè mảng, xe đạp, xe trâu, xe bò, xe ngựa… ở cả vùng tạm bị địch chiếm Liên khu 3, hay vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh, vùng Việt Bắc và Tây Bắc.
Tại Tây Bắc, hậu phương tại chỗ, ta đã kết hợp chặt chẽ mọi khả năng của các tỉnh, huyện, động viên được 83 thuyền, bè mảng. Riêng tỉnh Lai Châu đã động viên được 58 thuyền, bè mảng, trong đó huyện Mường Tè nơi gần chiến dịch, có nhiều đồng bào dân tộc ít người nhưng cũng động viên được 14 thuyền, bè mảng. Vùng Việt Bắc, theo kế hoạch huy động là 2.000 xe đạp nhưng đã huy động lên đến 8.062 xe. Liên khu 3 động viên được 1.712 xe. Tỉnh Thanh Hóa động viên được 9.814 xe đạp và 955 thuyền ván, 170 thuyền nan.
Trong thời gian Chiến dịch Điện Biên Phủ các lực lượng trong cả nước đã động viên, huy động được trên 20.000 xe đạp thồ, 17.000 xe ngựa thồ, trên 11.800 tàu thuyền, bè mảng và 628 xe ô-tô. Trong đó, số phương tiện được huy động sử dụng trực tiếp cho Chiến dịch gồm có: 628 ô-tô, 135 tàu thuyền các loại (trong đó có 10 ca nô, 1 thuyền sắt 6 tấn, 16 thuyền gỗ từ 2,5 tấn đến 12 tấn), 2.500 xe đạp, 500 xe ngựa với khối lượng luân chuyển lên đến 4.450.000 tấn/km.
Trong thời gian Chiến dịch Điện Biên Phủ các lực lượng trong cả nước đã động viên, huy động được trên 20.000 xe đạp thồ, 17.000 xe ngựa thồ, trên 11.800 tàu thuyền, bè mảng và 628 xe ô-tô. Trong đó, số phương tiện được huy động sử dụng trực tiếp cho Chiến dịch gồm có: 628 ô-tô, 135 tàu thuyền các loại (trong đó có 10 ca nô, 1 thuyền sắt 6 tấn, 16 thuyền gỗ từ 2,5 tấn đến 12 tấn), 2.500 xe đạp, 500 xe ngựa với khối lượng luân chuyển lên đến 4.450.000 tấn/km.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, lần đầu tiên ta động viên và sử dụng một số lượng lớn phương tiện cơ giới là ô-tô làm nhiệm vụ vận chuyển chủ yếu khối lượng vật chất hậu cần, kỹ thuật cho chiến dịch với phương châm: “cơ giới là chủ yếu, triệt để phát huy cơ giới đồng thời tranh thủ mọi phương tiện thô sơ” nên việc bảo đảm tình trạng kỹ thuật tốt cho phương tiện vận tải cơ giới được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm và tổ chức chu đáo.
Cục Vận tải phát động phong trào thi đua ở các đơn vị tập trung sửa chữa những xe ô-tô hư hỏng để nhanh chóng đưa vào phục vụ chiến dịch. Đại đội 202 đã tự khắc phục sửa được 12 xe, trong đó có 9 xe hỏng nặng và Đại đội 206 tự khắc phục được 4 xe đưa ngay vào sử dụng.

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Bên cạnh phong trào tự sửa chữa, nâng cấp xe ở các đơn vị, ngành Xe quân đội đã sáng tạo tổ chức một hệ thống bảo đảm kỹ thuật phục vụ cho các phương tiện cơ giới vận tải từ hậu phương ra tiền tuyến.
Trên đường ra mặt trận có xưởng sửa chữa AZ11 ở ngã ba Đông Lý (Yên Bái) được bổ sung nhiều trang thiết bị, thường xuyên sửa chữa cho các xe hoạt động chở hàng từ hậu phương ra các kho trung tuyến. Đội sửa chữa ở Tuần Giáo-Điện Biên Phủ (Km70) bảo đảm ưu tiên sửa chữa cho các xe hoạt động ở trung tuyến và hỏa tuyến. Hai đội sửa chữa cơ động được bố trí trên Đường số 41 và Đường số 13, mỗi đội có từ 7 đến 8 thợ giỏi, sẵn sàng sửa chữa những xe bị hư hỏng dọc đường.
Với số lượng xe-máy động viên ngày càng nhiều cho Chiến dịch, các xưởng sửa chữa của Cục Vận tải cũng nhanh chóng được bổ sung nhiều máy móc khá hiện đại như máy tiện, máy phay, máy doa, máy khoan điện, máy hàn, máy mài trục truyền động chính… và nhiều thợ lành nghề (xưởng Tiền Phong được bổ sung lên đến 277 người, xưởng Chiến Thắng được bổ sung 258 người và xưởng Thành Công bổ sung 239 người). Các xưởng áp dụng chuyên môn hóa cho các bộ phận, khả năng sửa chữa được nâng lên, cả 3 xưởng hằng tháng có thể sửa chữa được 25 xe; riêng xưởng Tiền Phong còn sản xuất được một số phụ tùng thay thế cung cấp cho các đơn vị xe và các xưởng khác. Vì vậy, trong suốt quá trình phục vụ chiến dịch, trong số 80 xe bị địch bắn phá và tai nạn làm hỏng nặng đã có 60 xe được lực lượng kỹ thuật sửa chữa, khắc phục.

Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. (Ảnh: TTXVN)
Nhân dân các thị trấn ở Thanh Hóa tiến đưa các đoàn dân công xe đạp thồ lên đường phục vụ tiền tuyến năm 1954. (Ảnh: TTXVN)
Với tinh thần “yêu xe như con, quý xăng như máu”, trong quá trình diễn biến chiến dịch, các chiến sĩ lái xe, thợ sửa chữa đã ngày đêm chăm sóc, bảo quản bảo đảm xe-máy luôn có chất lượng tốt, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, tăng khả năng cơ động của xe, tăng trọng lượng chở gạo, đạn và kéo pháo vào trận địa đúng theo kế hoạch, thời gian quy định; xe hỏng được lực lượng kỹ thuật nhanh chóng sửa chữa ngay trên đường hành quân để giảm giờ chết. Để bảo đảm kỹ thuật tốt nhất cho phương tiện, hơn 800 lái xe, 300 thợ sửa chữa của ngành xe-máy và ngành giao thông công chính cũng được động viên bổ sung kịp thời cho chiến dịch.

Hai là, bảo đảm bí mật, an toàn, đầy đủ vũ khí pháo binh trong giai đoạn chuẩn bị cho chiến dịch
Điện Biên Phủ là chiến dịch tập trung nhiều vũ khí pháo binh nhất trong kháng chiến chống Pháp với 316 khẩu pháo và cối (chỉ tính từ cối 82mm trở lên); chiến dịch lại liên tục đánh các trận công kiên, dài ngày nên số trang bị pháo, cối và cơ số đạn tiêu thụ theo yêu cầu có khối lượng rất lớn và phải bảo đảm bí mật, an toàn, đầy đủ.
Trong giai đoạn chuẩn bị, để đưa pháo lớn vào trận địa giữ được bí mật, an toàn, các lực lượng bảo đảm đã mở 5 tuyến đường với tổng chiều dài 63km. Đường mở đủ rộng cho xe, pháo đi lại, được ngụy trang ngay và thường xuyên thay ngụy trang để tránh máy bay địch phát hiện. Những nơi gần địch không được dùng mìn làm đường, những đoạn đường chạy qua đồi trọc hoặc chỗ trống được bắc giàn, lợp cỏ thật giống với khung cảnh thiên nhiên. Đường từ Tạ Khoa vào Điện Biên Phủ có tới 76 điểm bán kính quay vòng hẹp để bảo đảm cho xe kéo pháo an toàn, nhanh chóng tất cả các chỗ quay vòng hẹp được mở rộng bán kính tới 12m.

Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: TTXVN)
Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa. (Ảnh: TTXVN)
Thực hiện phương châm tác chiến “đánh nhanh, thắng nhanh”, Trung đoàn 45 và Trung đoàn 367 sau khi được trang bị, huấn luyện ở Trung Quốc đã đưa 24 khẩu lựu pháo 105mm và 24 khẩu pháo cao xạ 37mm về tập kết ở đường Tuần Giáo - Điện Biên. Để giữ bí mật, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định dùng sức người để kéo pháo, vận chuyển đạn và giao cho Trung đoàn 151 đặc trách ngụy trang các tuyến đường.
Để kéo được pháo vượt dốc dài có độ nghiêng từ 30 đến 40 độ, ta phải tập trung từ 80 đến 100 người chia thành 4 dây kết hợp với tời quay tay kéo nhích từng đoạn. Tiếp đó, thực hiện phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc”, chiến dịch đã xác định địa điểm bố trí trận địa cho các đại đội lựu pháo 105mm. Để bảo đảm an toàn, hầm pháo được khoét sâu vào thành núi, nắp hầm bằng đất xen kẽ với những lớp gỗ và bó trúc dày khoảng 3m. Nối liền giữa các khẩu đội pháo và khu vực hậu cần -kỹ thuật là hệ thống đường hào giao thông khá rộng và sâu, có những rãnh thoát nước để hầm hào được khô ráo. Về công việc khai thác gỗ để làm hầm, mặc dù trận địa nằm ngay giữa rừng nhưng để giữ bí mật vẫn phải khai thác xa trận địa từ 5 đến 7km.

Đào Pha-đin trên đường số 6 và đèo Lũng lộ trên đường 13, nơi đã chứng kiến các cuộc hành quân lớn của quân đội ta vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Đào Pha-đin trên đường số 6 và đèo Lũng lộ trên đường 13, nơi đã chứng kiến các cuộc hành quân lớn của quân đội ta vào chiến dịch Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Trung đoàn 45 cho Đại đội 806 vào chiếm lĩnh trận địa để rút kinh nghiệm, đã cử một tổ trinh sát mang theo máy đàm thoại, nằm sát hàng rào địch kiểm tra xem tiếng vọng của động cơ xe kéo pháo có tới vị trí địch không để kịp thời báo cho xe cắt pháo ở những chỗ thích hợp nhất, rồi dùng sức người tiếp tục kéo pháo vào trận địa.
Đến đêm 11/3/1954, toàn bộ pháo của Trung đoàn 45 đã chiếm lĩnh xong trận địa bí mật, an toàn. Trận địa pháo cao xạ 37mm được bố trí ở gần địch nên việc xây dựng phải tiến hành vào ban đêm, trận địa hoàn thành đến đâu nhanh chóng được ngụy trang ngay đến đó.
Cùng với nhiệm vụ đưa pháo vào trận địa, công tác bảo đảm đạn pháo, cối cũng gấp rút được triển khai. Trên cơ sở số lượng các loại đạn pháo, cối cần có khoảng 1.000 tấn, lực lượng kỹ thuật tính toán bố trí hợp lý ở các kho: Kho hậu phương dự trữ 1 cơ số đạn pháo, cối (riêng đạn lựu pháo 105mm là 2 cơ số); kho tiền phương dự trữ 1/2 cơ số đạn ĐKZ; 1,5 cơ số đạn pháo cao xạ 37mm; 2 cơ số đạn lựu pháo 105mm và đạn cối 120mm; các loại đạn pháo khác là 1 cơ số. Các đơn vị được bảo đảm có đủ 1 cơ số đạn pháo, cối.
Với đạn lựu pháo 105mm, bước vào chiến dịch ta chỉ có 3.600 quả đồng bộ với pháo do Trung Quốc viện trợ. Số đạn lựu pháo 105mm chiến lợi phẩm có 11.715 quả thu được của địch ở chiến dịch Biên Giới năm 1950 (đã sử dụng một ít ở chiến dịch Hòa Bình) gửi ở Long Châu (Trung Quốc) và 400 quả thu được trong trận Ba Na Phào trong chiến dịch Trung Lào được lưu giữ ở Chu Lễ (Hà Tĩnh) nhanh chóng chuyển toàn bộ để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Các đơn vị bộ binh cơ giới đang khẩn trương đưa bộ đội vào Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Trong giai đoạn chuẩn bị, ngay từ tháng 10/1953 các kho đã khẩn trương thực hiện “Kế hoạch CK” bảo đảm dự trữ riêng cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Để bảo đảm an toàn đạn dược, việc xây dựng các kho được lực lượng bảo đảm sáng tạo bằng cách sử dụng hang, hốc đá cất chứa đạn là chủ yếu.
Ở Sơn La, ta dựa vào hang đá ở Bản Lầu làm tổng kho vũ khí, đạn dược cho chiến dịch (trong hang kê gỗ, ván tránh ẩm ướt). Ở hỏa tuyến, các kho đạn đều dựa vào địa hình có lợi, đào hầm sâu vào sườn núi, kê gỗ, lót ván bố trí dọc đường từ Km57 tới Km62. Kho Pú Hồng của Đại đoàn 312 có sáng kiến làm hầm chìm, đào sâu khoảng 1m, có nắp dày từ 1,5 đến 2m nên khi phi pháo địch tăng cường bắn phá vẫn bảo đảm an toàn. Số đạn pháo khi xuất kho, đều có cán bộ, nhân viên quân khí theo xe áp tải lên giao cho các kho thuộc tuyến hậu cần-kỹ thuật chiến dịch.
Để tránh bị địch phát hiện, một số kho đạn được cán bộ, nhân viên quân khí và lực lượng dân công di chuyển kho ra địa điểm mới, ngay cả trong những ngày Tết Nguyên đán Giáp Ngọ (1954). Do ngụy trang kín đáo trong kho và trên đường xe ra vào, nên mặc dù địch ra sức dùng máy bay trinh sát nhưng chúng vẫn không phát hiện được.
Với phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc”, Bộ Tổng Tư lệnh nhanh chóng bổ sung kế hoạch trang bị mới mang tên “Kế hoạch FPT”. Thực hiện kế hoạch, lực lượng bảo đảm kỹ thuật chiến dịch tổ chức chuyển thêm 1 cơ số các loại đạn cối 81mm, 82mm, 120mm; các loại đạn pháo 75mm, 105mm và cao xạ 37mm tập trung về một kho để sẵn sàng cấp phát được ngay.
Tổng cục Cung cấp quy định các kho thuộc Tổng cục bảo đảm cho các đại đoàn; các đại đoàn bảo đảm cho các đơn vị trực thuộc. Nhờ có quy định chặt chẽ, công tác cấp phát bảo đảm đạn pháo trong giai đoạn chuẩn bị chiến dịch tuy rất phức tạp, khẩn trương nhưng vẫn bảo đảm không bị chồng chéo.
Quân khí ở hậu phương đã tập trung lực lượng đôn đốc các kho nhanh chóng kiểm tra, phân loại, bảo dưỡng toàn bộ số đạn pháo hiện có trong kho để đưa vào lượng dự trữ, sẵn sàng cấp phát. Do kiểm tra kỹ từng chất lượng từng quả đạn nên đã phát huy hiệu quả chất lượng sử dụng, kịp thời loại bỏ những quả đạn kém chất lượng, nhất là một số đạn pháo chiến lợi phẩm đã bị địch vặn ngòi để bẫy, không để xảy ra tình trạng đạn nổ ngay trong nòng, phá hủy pháo và gây thương vong cho pháo thủ.

Các chiến sĩ pháo binh của ta đang tích cực chuẩn bị cho giờ nổ súng. (Ảnh: TTXVN)
Các chiến sĩ pháo binh của ta đang tích cực chuẩn bị cho giờ nổ súng. (Ảnh: TTXVN)
Trong quá trình chuẩn bị, do yêu cầu cấp thiết về vũ khí pháo binh bảo đảm cho chiến dịch, Tổng cục có sáng tạo trong tổ chức tiếp nhận tốt số hàng viện trợ. Bình thường, khi nhập viện trợ, các loại vũ khí pháo binh đều được kiểm tra, đăng ký rồi mới nhập kho, nay nhiều loại ta giao ngay cho đơn vị hoặc giao cho lực lượng vận tải để chuyển thẳng lên vị trí tập kết.
Tính từ tháng 1 đến tháng 6/1954, lực lượng bảo đảm đạn tổ chức tiếp nhận 1.100 quả đạn lựu pháo 105mm; 4.000 đạn sơn pháo 75mm; 29.480 đạn pháo cao xạ 37mm viện trợ. Công tác tiếp nhận đạn viện trợ được tiến hành khẩn trương, nhiều đợt đạn pháo vừa tiếp nhận vừa giao ngay cho đơn vị.
Trong những ngày cuối của chiến dịch, một tiểu đoàn ĐKZ 75mm và một tiểu đoàn hỏa tiễn H6 (Cachiusa) do Trung Quốc viện trợ được gửi thẳng ra mặt trận đã kịp thời tham gia đợt tổng công kích cuối cùng chiều ngày 6/5/1954. Chỉ trong một thời gian ngắn, các mặt công tác bảo đảm trang bị, bảo đảm đạn trong giai đoạn chuẩn bị của lực lượng pháo binh ta đã hoàn tất làm quân địch khi vào trận hoàn toàn bị bất ngờ.

Ba là, triệt để tận thu vũ khí trang bị, chiến lợi phẩm thực hiện “lấy của địch đánh địch” hoàn thành công tác bảo đảm kỹ thuật của ta
Thực tế diễn biến đợt 2 Chiến dịch Điện Biên Phủ không theo dự kiến ban đầu mà phải kéo dài thời gian chiến đấu. Vào thời gian này, thời tiết chuyển mùa mưa, máy bay địch liên tục đánh phá giao thông hòng khống chế tiếp tế của ta. Việc bảo đảm đạn pháo cho chiến dịch gặp rất nhiều khó khăn. Có ngày, có khẩu pháo chỉ còn 5 viên đạn. Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã kịp thời chỉ thị cho các đơn vị tăng cường giáo dục ý thức tiết kiệm đạn. Việc sử dụng đạn pháo 105mm được quy định chặt chẽ: bắn 3 viên trở lên phải có lệnh của Tham mưu trưởng Chiến dịch, bắn trên 10 viên phải có sự phê chuẩn của Tư lệnh Chiến dịch.

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Để tiếp viện lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị, đạn dược... cho chiến trường Điện Biên Phủ, thực dân Pháp tăng cường bằng đường không, sử dụng máy bay, trực thăng vận tải thả dù chi viện cho lực lượng của chúng. Trước tình hình trên, Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã phát động phong trào “đoạt dù lấy đạn”. Đây là lần đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp ta thu dù tiếp tế của địch và là một sáng tạo trong bảo đảm kỹ thuật.
Phong trào “đoạt dù lấy đạn” là một sáng tạo trong bảo đảm kỹ thuật, được các đơn vị hưởng ứng sôi nổi.
Phong trào “đoạt dù lấy đạn” được các đơn vị hưởng ứng sôi nổi. Các đơn vị ở trận địa phòng ngự đã tổ chức lực lượng kỹ thuật ra thu dù, vừa chiến đấu vừa thu. Đoạt dù tiếp tế được thực hiện theo thứ tự ưu tiên. Đơn vị phòng ngự ở gần cứ điểm Hồng Cúm, trải qua nhiều đợt đã rút được kinh nghiệm và nêu thành nguyên tắc đoạt dù là “thu súng đạn, máy móc, thuốc men trước, thực phẩm sau; thu gần địch trước, xa địch sau; không thu được mới phá hủy”.
Trong phong trào này, bộ đội đã lấy được 5.000 viên đạn lựu pháo 105mm từ dù tiếp tế của địch ngay tại trận địa. Đại đoàn 316 là đơn vị thu nhiều nhất được 4.500 viên đạn pháo 105mm; Đại đoàn 304 vừa chiến đấu, vừa đoạt dù tiếp tế thu được hàng trăm viên đạn pháo. Tất cả số đạn pháo chiến lợi phẩm trên được các đơn vị đưa ngay vào chiến đấu. Tổng số chiến lợi phẩm thu được ở Chiến dịch Điện Biên Phủ lên tới gần 1.000 tấn vũ khí đạn (trong đó phần lớn là đạn pháo 105mm và các loại đạn cối), 43 tấn máy móc và dụng cụ thông tin, 46 xe ô-tô.

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ bị quân ta phá hủy và thu được tại mặt trận Điện Biên Phủ. (Ảnh: TTXVN)
Tuy nhiên, việc thu chiến lợi phẩm của ta gặp khó khăn vì đều nằm trong tầm phi pháo, nhiều lúc thu dưới sự uy hiếp trực tiếp của hỏa lực bộ binh địch, nhưng cũng có những thuận lợi là địch bị bao vây chặt, ta có súng, pháo cao xạ khống chế máy bay. Vì vậy ta đã bố trí lực lượng, phân công hậu cần-kỹ thuật từ Tổng cục đến các đơn vị được hợp lý; tổ chức thu nhanh, gọn, không bị địch phá hoại. Trường hợp đánh các cứ điểm vòng ngoài, lực lượng kỹ thuật đơn vị nhanh chóng chuyển vũ khí chiến lợi phẩm xuống các giao thông hào chờ kế hoạch điều động, cung cấp cho các đơn vị của Bộ Chỉ huy Chiến dịch.
Việc cung cấp vũ khí chiến lợi phẩm cho đơn vị cũng là một sáng tạo của ta trong công tác bảo đảm kỹ thuật, bằng nguyên tắc “tập trung kết hợp với cấp phát nhanh chóng”. Tập trung đây không có nghĩa là tập trung vũ khí trang bị về một nơi, mà chỉ là tập trung quyền phân phối vào Ban Thu chiến lợi phẩm từ đó sẽ cân đối và đề nghị Bộ Chỉ huy Chiến dịch cấp phát ngay cho đơn vị đang có nhu cầu cấp thiết cho chiến đấu.

Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được. (Ảnh: TTXVN)
Các loại vũ khí hiện đại và phương tiện chiến tranh có nhiều thứ mang nhãn hiệu Mỹ của giặc Pháp ở Điện Biên Phủ bị quân ta phá hủy và thu được. (Ảnh: TTXVN)
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, vũ khí chiến lợi phẩm thu được của địch trong đợt 1 là 72,720 tấn, đợt 2 là 46 tấn (toàn chiến dịch ta thu 800 tấn) và đã trang bị ngay cho các đơn vị là 50 tấn để chiến đấu tiêu diệt địch. Tuy nhiên, việc tận dụng khả năng chiến lợi phẩm để kịp thời trang bị cho các đơn vị còn có hạn chế như: Thời gian đầu tổ chức các đội thu chiến lợi phẩm chậm, có đơn vị chỉ chú trọng thu những vũ khí thích hợp với đơn vị mình mà không chú trọng ưu tiên thu đạn pháo, đạn cối; nhiều đơn vị đã tự ý trang bị vũ khí đạn chiến lợi phẩm, trong khi đó thì một số đơn vị khác đang thiếu gây ra tình trạng lãng phí, một vài đơn vị quan niệm vũ khí chiến lợi phẩm là trang bị ngoại lệ nên công tác bảo quản, khai thác sử dụng còn chưa chặt chẽ.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Công tác bảo đảm kỹ thuật cho Chiến dịch Điện Biên Phủ đã để lại những bài học quý để Đảng, Nhà nước, Quân đội, ngành Kỹ thuật tiếp tục kế thừa, chọn lọc sáng tạo và phát triển. Trong những năm qua, Tổng cục Kỹ thuật đã chủ động làm tốt công tác tham mưu chiến lược giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác kỹ thuật quân sự và tăng cường chỉ đạo bảo đảm công tác kỹ thuật toàn quân.
Hiện nay, ngành Kỹ thuật nói chung và Tổng cục Kỹ thuật nói riêng đã, đang thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch mà Nghị quyết 382/NQ-ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về lãnh đạo công tác kỹ thuật quân sự trong tình hình mới, làm cơ sở để xây dựng ngành Kỹ thuật quân đội tinh, gọn, mạnh, thống nhất và đồng bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nội dung: Trung tướng Lê Quý Đạm
Bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực (7/5/1954-7/5/2019)"
Trình bày: Ngô Hương
