Tối ưu hóa giá trị văn hóa
và bảo tồn di sản

Việt Nam sở hữu một kho tàng di sản văn hóa và thiên nhiên phong phú, trong đó có nhiều di sản được UNESCO công nhận. Những di sản này không chỉ là niềm tự hào của dân tộc mà còn mang lại giá trị kinh tế lớn thông qua ngành du lịch. Tuy nhiên, trước những thách thức như biến đổi khí hậu, tác động của con người và sự xuống cấp theo thời gian, số hóa di sản đang trở thành một xu hướng tất yếu.
Ứng dụng công nghệ thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR), dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ giúp bảo tồn di sản mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch bền vững. Dù vậy, để triển khai hiệu quả, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản về hạ tầng, nhân lực và cơ chế quản lý bản quyền.
Xu hướng tất yếu trong bảo tồn
và phát triển du lịch
Số hóa di sản không chỉ giúp lưu giữ và bảo vệ những giá trị văn hóa mà còn mang đến trải nghiệm mới mẻ cho công chúng. Những công nghệ VR, AR, AI và Big Data đang thay đổi cách con người tiếp cận di sản, giúp du khách có thể “bước vào” những không gian lịch sử một cách chân thực, dù không cần đến tận nơi. Tại Việt Nam, các dự án số hóa đã có những bước tiến đáng kể.
Cố đô Huế là một trong những địa phương tiên phong trong lĩnh vực này khi ứng dụng công nghệ quét 3D để tái hiện toàn bộ quần thể di tích triều Nguyễn. Nhờ đó, du khách có thể khám phá Đại nội, lăng Vua Minh Mạng hay lăng Vua Tự Đức thông qua thực tế ảo, thay vì chỉ dừng lại ở những mô hình hoặc hình ảnh tĩnh. Công nghệ quét 3D giúp bảo tồn không chỉ hình ảnh mà còn là các thông tin chi tiết về di tích. Việc số hóa phục vụ hữu hiệu cho công tác bảo tồn đồng thời mang lại cho du khách những trải nghiệm du lịch độc đáo.
Tại Hội An, công nghệ thực tế tăng cường AR được sử dụng để tái hiện những cảnh tượng lịch sử của thương cảng xưa, từ những đoàn thuyền buôn tấp nập đến các lễ hội truyền thống. Hội An cũng đã hợp tác với Google Arts & Culture để đưa các di tích của thành phố lên nền tảng trực tuyến, mang đến cơ hội tiếp cận và tìm hiểu về di sản văn hóa của Việt Nam cho hàng triệu người dân trên toàn cầu.
Ngoài các di tích, bảo tàng cũng là những địa chỉ văn hóa đã và đang ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia đã triển khai số hóa hơn 50 nghìn hiện vật dưới dạng 3D, mang lại cho công chúng cơ hội chiêm ngưỡng từ xa. Ông Nguyễn Văn Đoàn, Giám đốc Bảo tàng chia sẻ: “Số hóa giúp bảo tàng không dừng lại là nơi trưng bày vật thể mà còn trở thành không gian mở, nơi công chúng có thể tiếp cận di sản mọi lúc, mọi nơi”.
Không chỉ tại Việt Nam, số hóa di sản đã trở thành xu hướng toàn cầu. Bảo tàng Louvre (Pháp) đã số hóa hàng trăm nghìn tác phẩm nghệ thuật để xây dựng một bảo tàng trực tuyến, giúp mọi người trên thế giới có thể thưởng thức những kiệt tác dù chưa được đặt chân đến Paris. Ở Italia, công nghệ quét 3D được sử dụng để tái hiện chính xác Đấu trường Colosseum, mang lại trải nghiệm chân thực và hấp dẫn cho du khách. Những thành công này cho thấy rằng, nếu được đầu tư đúng hướng, số hóa di sản không chỉ giúp bảo tồn mà còn góp phần phát triển du lịch.
Chùa Diên Hựu được phục dựng bằng công nghệ VR3D.Nguồn: Sen Heritage
Chùa Diên Hựu được phục dựng bằng công nghệ VR3D.Nguồn: Sen Heritage
Lợi ích và thách thức của số hóa di sản
Việc số hóa di sản mang lại những lợi ích to lớn không chỉ trong bảo tồn mà còn trong phát triển du lịch và giáo dục. Khi di sản được số hóa, nguy cơ xuống cấp do thời gian và tác động của con người được giảm thiểu đáng kể. Đồng thời, công nghệ giúp mở rộng khả năng tiếp cận cho những người không thể đến trực tiếp, chẳng hạn như người khuyết tật hay công chúng quốc tế. Giáo dục và nghiên cứu cũng hưởng lợi từ quá trình này khi sinh viên, học giả có thể tiếp cận tư liệu một cách chi tiết và trực quan hơn.
Tuy nhiên, những thách thức đặt ra là không thể phủ nhận. Một trong những trở ngại lớn nhất là hạ tầng công nghệ và kinh phí đầu tư. Các dự án quét 3D quy mô lớn như tại Huế có thể tiêu tốn hàng tỷ đồng, một con số không phải địa phương nào cũng có thể đáp ứng. Thêm vào đó, việc đào tạo nhân lực chuyên sâu chưa được chú trọng, dẫn đến thiếu hụt đội ngũ có đủ chuyên môn để thực hiện các dự án số hóa.
Bên cạnh đó, việc bảo vệ bản quyền và quản lý dữ liệu số cũng là một bài toán nan giải. Khi di sản được số hóa và đưa lên mạng, nguy cơ bị sao chép, sử dụng trái phép là rất cao. Một hướng dẫn viên du lịch tại Hội An chia sẻ: “Việc tái hiện di sản bằng công nghệ là rất hay nhưng cũng phải có quy định rõ ràng để tránh bị thương mại hóa một cách tràn lan. Nếu không kiểm soát tốt, di sản có thể đối mặt với nguy cơ bị biến tướng, làm mất đi giá trị gốc”.
Dù gặp nhiều thách thức, số hóa di sản vẫn là xu hướng không thể đảo ngược. Điều quan trọng là Việt Nam cần có chiến lược phù hợp để khai thác tiềm năng này một cách hiệu quả.
Định hướng phát triển tại Việt Nam
Để đẩy mạnh số hóa di sản, Việt Nam cần có chính sách đầu tư bài bản vào hạ tầng công nghệ, đặc biệt tại các vùng di sản trọng điểm. Chính phủ có thể hỗ trợ các địa phương thông qua các gói tài trợ hoặc cơ chế khuyến khích doanh nghiệp công nghệ tham gia. Đồng thời, việc đào tạo nhân lực chất lượng cao cần được chú trọng hơn, giúp các cán bộ quản lý di sản có đủ kiến thức để ứng dụng công nghệ vào công tác bảo tồn.
Hợp tác quốc tế cũng là một hướng đi quan trọng. Việt Nam có thể học hỏi từ các quốc gia đã thành công trong lĩnh vực này như Pháp, Italia hay Nhật Bản. Tại Nhật, bảo tàng kỹ thuật số TeamLab Borderless đã trở thành một điểm đến hấp dẫn, chứng minh rằng khi di sản được kết hợp với công nghệ, nó không chỉ mang giá trị bảo tồn mà còn tạo ra sức hút du lịch mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, cần có các quy định chặt chẽ về bản quyền và bảo vệ dữ liệu di sản. Việc phát triển các nền tảng số cần đi kèm với cơ chế kiểm soát, bảo đảm rằng di sản không bị sử dụng sai mục đích hoặc bị thương mại hóa một cách vô tội vạ. Một du khách sau khi trải nghiệm chương trình thực tế ảo tại Đại nội Huế nhận xét: “Tôi rất thích cách công nghệ giúp mình hiểu rõ hơn về lịch sử, nhưng tôi cũng mong muốn những trải nghiệm này vẫn giữ được nét chân thực của di sản, thay vì bị biến thành một dạng sản phẩm giải trí thuần túy”.
Rõ ràng, số hóa di sản không chỉ là công cụ bảo tồn mà còn là cơ hội để nâng cao giá trị du lịch văn hóa. Điều quan trọng là phải có cách tiếp cận đúng đắn, bảo đảm sự cân bằng giữa ứng dụng công nghệ và bảo tồn nguyên bản.
Số hóa di sản là xu hướng tất yếu trong thời đại công nghệ, mang lại cơ hội lớn cho cả bảo tồn lẫn phát triển du lịch. Khi được đầu tư đúng hướng, các công nghệ số không chỉ giúp bảo vệ di sản một cách bền vững mà còn tạo ra những trải nghiệm mới, thu hút du khách trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để thật sự phát huy hiệu quả, Việt Nam cần có chiến lược đồng bộ từ hạ tầng, nhân lực đến cơ chế quản lý bản quyền. Chỉ khi kết hợp hài hòa giữa công nghệ và bảo tồn, chúng ta mới có thể đưa di sản Việt Nam vươn xa trong kỷ nguyên số.
Đình Chu Quyến được áp dụng công nghệ Scan 3D để cho ra đời một phiên bản số hóa với độ chính xác gần như tuyệt đối. Nguồn: Công ty TNHH An Thi
Đình Chu Quyến được áp dụng công nghệ Scan 3D để cho ra đời một phiên bản số hóa với độ chính xác gần như tuyệt đối. Nguồn: Công ty TNHH An Thi
Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số 2026/QĐ-TTg ngày 2/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình đặt mục tiêu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên nền tảng công nghệ số thống nhất, phục vụ công tác lưu trữ, quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, khai thác, quảng bá di sản, thúc đẩy phát triển du lịch bền vững; bảo đảm tích hợp được vào khung kiến trúc Chính phủ điện tử và Hệ tri thức Việt số hóa; đẩy mạnh chuyển đổi số, thực hiện liên thông dữ liệu số quốc gia về di sản văn hóa, bảo đảm đáp ứng hiệu quả dịch vụ cho xã hội, cộng đồng ở mọi lúc, mọi nơi.
Trong đó, mục tiêu cụ thể đặt ra bao gồm: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; 100% các di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; 100% các bảo vật quốc gia, các di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia sẽ được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; 100% người làm công tác chuyên môn trong ngành di sản văn hóa được đào tạo và đào tạo lại, cập nhật các kiến thức cùng kỹ năng chuyển đổi số.

Tổ chức thực hiện :
Ban Nhân Dân hằng tháng
Nội dung :
Huyền Nga-Hiền Trương-Thành Huy-Phương Hồ
Trình bày mỹ thuật :
Duy Thanh
Ảnh :
Nguồn: Sun Group, Oxalis Adventures, Sen Heritage,
Công ty TNHH An Thi, Huyền Nga, internet.