Việt Nam là quốc gia đầu tiên triển khai mô hình giảm phát thải trong trồng lúa với quy mô triệu ha, nhưng chưa chắc Việt Nam sẽ đi đến đích đầu tiên. Việt Nam đang đi chậm hơn so với Thái Lan trong trồng lúa giảm phát thải, nếu không sớm hoàn thiện các chính sách về pháp lý, nguồn tài chính và nhân rộng mô hình trồng lúa giảm phát thải lên quy mô lớn toàn quốc, chúng ta sẽ mất nhiều cơ hội trên thị trường lúa gạo thế giới.
Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trò chuyện với Tiến sĩ Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường về hành trình trồng lúa giảm phát thải theo đề án “Phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao gắn với tăng trưởng xanh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long” và cơ hội cho ngành lúa gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Cơ hội tái cấu trúc ngành trồng lúa theo hướng bền vững
Thưa Tiến sĩ Trần Minh Hải,“Gạo Việt xanh phát thải thấp” đã được chứng nhận và đi ra được thế giới tháng 5 vừa qua. Đây không chỉ là nhãn hiệu thương mại mà còn là cam kết về trách nhiệm với môi trường và xã hội”. Theo ông, điều này tạo sự kích thích thế nào với bà con và các doanh nghiệp khi cơ hội cho gạo Việt Nam sẽ bước chân được vào các thị trường khó tính?
Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) vừa ra mắt nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” tháng 5 vừa qua và đã bán được 500 tấn gạo đầu tiên ở Nhật Bản với giá 820 USD/tấn gạo. Đây lần đầu tiên Việt Nam và cũng như trên thế giới có nhãn hiệu gạo này, khẳng định sự phát triển rất lớn của ngành hàng lúa gạo.
Như vậy, Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam đã xây dựng được quy trình thẩm định gạo xanh, giảm phát thải. Những loại gạo thông qua quy trình này sẽ được dán logo “Gạo Việt xanh phát thải thấp”. So với giá gạo thông thường cùng thời điểm 530 USD/tấn, thì với giá 820 USD/tấn gạo rất hấp dẫn doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hiện nay diện tích chứng nhận gạo xanh giảm phát thải chỉ khoảng 20 nghìn ha và Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam đang có những kiểm soát nghiêm ngặt việc cấp nhãn mác. Các doanh nghiệp muốn làm gạo xanh giảm phát thải, phải đăng ký quy trình sản xuất cho diện tích sản xuất lúa và được giám sát bởi hệ thống điện tử về mọi khâu giảm phát thải để được cấp chứng nhận.
Từ kết quả cụ thể này, chúng ta có niềm tin là đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 do Bộ Nông nghiệp triển khai sẽ tái cấu trúc lại ngành trồng lúa của Việt Nam theo hướng bền vững phải không, thưa ông?
Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao là đề án để tái ấu trúc lại ngành trồng lúa của Việt Nam theo hướng bền vững, giúp tăng thu nhập của người nông dân, bảo vệ sức khỏe người nông dân và bảo vệ sức khỏe của đất đai.
Đề án đã triển khai từ tháng 11/2023 đến năm 2024 với 7 mô hình thí điểm trên diện tích 50ha ở 5 tỉnh: Đồng Tháp, Trà Vinh, Kiên Giang, Cần Thơ, mô hình nuôi lúa-tôm ở Sóc Trăng, Cà Mau.
Mô hình chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại Trà Vinh cho thấy kết quả tích cực với chi phí sản xuất giảm, trong khi năng suất và lợi nhuận tăng.
Mô hình chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp tại Trà Vinh cho thấy kết quả tích cực với chi phí sản xuất giảm, trong khi năng suất và lợi nhuận tăng.
Đề án được xây dựng trên cơ sở khoa học và kế thừa nền tảng của Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (Dự án VnSAT) nhằm hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững là “3 giảm, 3 tăng” sang “1 phải, 5 giảm”, và đã ghi nhận được những kết quả thành công qua các mô hình thí điểm.
Nội dung nổi bật của đề án là “1 phải, 5 giảm”, là một mô hình kỹ thuật canh tác được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến khích áp dụng. Theo đó, người nông dân “phải” sử dụng giống lúa xác nhận để bảo đảm chất lượng và năng suất ổn định.
“Năm giảm” gồm: Giảm lượng giống gieo sạ, 120-150kg giống/ha xuống 70kg giống/ha, giúp cây phát triển khỏe mạnh, hạn chế sâu bệnh, tiết kiệm chi phí giống; giảm 30% lượng phân đạm, giúp giảm ô nhiễm môi trường, hạn chế sâu bệnh và đổ ngã, tiết kiệm chi phí; giảm 30% lượng thuốc bảo vệ thực vật để hạn chế dư lượng hóa chất, bảo vệ sức khỏe nông dân và người tiêu dùng; giảm lượng nước tưới bằng phương pháp ngập-khô xen kẽ, giúp tiết kiệm tài nguyên nước, giảm phát thải khí nhà kính và giảm thất thoát sau thu hoạch.
Theo phương pháp này, khi lúa sạ thưa, khi xả nước, lúa sẽ có điều kiện bám rễ sâu để nảy mầm và mọc nhiều chồi. Phương pháp sạ lúa cũ là 150kg giống/ha, 1 hạt giống sẽ lên 2-3 cây lúa. Nhưng với phương pháp mới giảm giống lúa, tưới khô xen kẽ, sau 40 ngày, một hạt sẽ sinh ra 6-7 cây. Rõ ràng sạ giống thưa, ánh sáng chiếu thẳng xuống gốc giúp lúa khô gốc, mầm bệnh không phát tác.
Phương pháp này cho hạt lúa sáng, chắc, tỷ lệ nước trong hạt gạo thấp đi nên khi xay, tỷ lệ gạo gẫy thấp hơn, thu được gạo nguyên hạt tỷ lệ cao hơn, mã đẹp.
Với diện tích lớn nhất cả nước, đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là nơi cung cấp lúa gạo trong nước mà còn xuất khẩu, đóng góp quan trọng vào an ninh lương thực toàn cầu. Xin Tiến sĩ cho biết, bà con nơi đây đã tìm cách để thích ứng với biến đổi khí hậu thế nào để trồng lúa giảm phát thải?
Gắn với điều kiện tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, một số tỉnh phía trên khu vực sông Mekong như An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang thường sản xuất 2-3 vụ lúa, gần như chủ động nước ngọt. Nhưng với các tỉnh ven biển như An Biên của Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và một phần Trà Vinh, thì mùa nắng nước mặn, mùa mưa nước ngọt nên cây lúa không làm được 2 vụ. Vì thế, với điều kiện này, bàn con phải canh tác trên lúa, dưới tôm.
Đó là sự thích ứng với biển đổi khí hậu mà Việt Nam là nước có những phương pháp thích ứng phù hợp. Dù trong điều kiện khắc nghiệt, nhưng thu nhập của bà con vùng canh tác lúa không thấp. Thu nhập của bà con trồng lúa tôm so với khu vực trồng 2-3 vụ lúa/năm có phần cao hơn.
Thu hoạch tôm sú dưới cánh đồng tôm-lúa của nông dân tại Thới Bình, Cà Mau. (Ảnh: HỮU TÙNG)
Thu hoạch tôm sú dưới cánh đồng tôm-lúa của nông dân tại Thới Bình, Cà Mau. (Ảnh: HỮU TÙNG)
Nhìn vào thực tế của diện tích 128 nghìn ha lúa tôm của Kiên Giang, 32 nghìn ha của Cà Mau chứng minh cho thấy, vào mùa nắng, nước mặn ở sông Tiền, sông Hậu thấp, nước biển tràn vào sẽ giúp tôm sú không bị sâu bệnh. Với sự hỗ trợ của một số chế phẩm như Bồ Đề tạo thành chuỗi thức ăn cho tôm sú rất tốt. Đó là sự thích ứng thuận thiên.
Nước mặn sẽ tạo ra tiền nếu bà con biết ứng dụng kiến thức nông dân chuyên nghiệp như ứng dụng phân vi sinh, cơ giới. Việc quan trọng của chúng ta là phải làm các mô hình thành công, cho bà con thấy những ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ giúp bà con canh tác thích ứng với bền vững và đào tạo họ. Nếu nông dân được học, được đào tạo công nghệ, sẽ dễ dàng thích ứng trong sản xuất.
Trồng lúa giảm phát thải, tiến tới trung hòa carbon. Chính những chủ thể của đồng ruộng sẽ là người đóng vai trò quan trọng trong hành trình tiến tới Net Zero tại Việt Nam. Đề án này đã thay đổi nhận thức của bà con như thế nào trong quá trình canh tác. thưa ông?
Đề án này là một liên kết sản xuất theo chuỗi bền vững mà tác nhân tham gia chuỗi dự án gồm: Doanh nghiệp, nông dân, thương lái cùng có lợi.
Đề án chứng minh hiệu quả kinh tế và tính hợp lý của mô hình và quy trình hướng dẫn quy trình canh tác của Bộ Nông nghiệp và Môi trường phù hợp với thực tiễn. Đề án cũng chứng minh thêm được, chúng ta đã giảm phát thải từ 4-6 tấn carbon/ha lúa/vụ. Nếu nông dân canh tác lúa 3 vụ, chúng ta sẽ đạt được 12-18 tấn carbon/ha lúa/năm, đẩy nhanh quy trình trung hòa carbon của Việt Nam. Điều này chúng ta đã làm, đã đo và thấy được kết quả thực tế.
Như phân tích về “1 phải, 5 giảm” ở trên, điều quan trọng nhất của việc giảm phát thải, trung hòa carbon chính là quá trình xử lý rơm sau gặt và phương pháp tưới ngập-khô xen kẽ.
Trước đây, bà con thu hoạch lúa sẽ vùi rơm hoặc đốt rơm. Như vậy, chúng ta làm ra 1 tấn lúa, sẽ thải 1 tấn carbon; trên 1ha lúa sẽ thải 8 tấn carbon (1ha thu hoạch được 8 tấn lúa).
Ngành lúa gạo Việt Nam đang hướng tới mục tiêu giảm phát thải.
Ngành lúa gạo Việt Nam đang hướng tới mục tiêu giảm phát thải.
Đề án hướng dẫn bà con lấy rơm ra khỏi đồng ruộng, có thể sử dụng để trồng nấm. Điều này có thể tạo việc làm cho hàng nghìn lao động với nguồn thu nhập bền vững từ trồng nấm. Bên cạnh đó, bã nấm rơm ủ thành phân vi sinh, bón lại cho ruộng mà không tốn chi phí vận chuyển, giúp giảm nửa chi phí đi mua phân bón ở ngoài.
Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã ký hợp đồng với EVN mua rơm đốt thành nhiệt điện tại Vĩnh Thạnh, Cần Thơ. Đây cũng là một hướng đi giúp bà con tăng thêm thu nhập.
Phương pháp ngập-khô xen kẽ (AWD) sẽ giảm 15-30% lượng nước so với tưới ngập liên tục; giảm công tưới; giảm sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhờ điều kiện đất khô ráo. Sau khi rút nước, chờ cho đến khi mực nước trong ống xuống khoảng 15cm dưới mặt đất thì tiến hành tưới nước lại và lặp lại chu kỳ này liên tục trong suốt giai đoạn sinh trưởng, trừ khi lúa đến kỳ trổ bông. Phương pháp này giúp giảm phát thải CH₄ (methane) – khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh.
Với phương pháp canh tác theo Đề án 1 triệu ha lúa, chúng ta sẽ giảm được ít nhất 50% carbon.
“Trợ lực” cho bà con trở thành nhà nông sinh thái
Để giúp bà con trở thành những nhà nông thông thái, hiện nay việc cơ giới hóa, ứng dụng sản phẩm công nghệ sinh học vào canh tác đã được triển khai hiệu quả. Ông đánh giá thế nào về vai trò của những công nghệ đổi mới, sáng tạo trong việc hỗ trợ bà con trồng lúa sạch, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây có phải là chìa khóa để giúp bà con trở thành những nhà nông thông thái trong thời đại công nghệ số?
Chúng ta nhìn việc này ở 2 góc độ. Về góc độ quản lý Nhà nước, chúng ta có chủ trương khuyến khích chuyên gia có nhiều sáng kiến đổi mới sáng tạo về khoa học công nghệ nhưng nguồn tài chính từ ngân sách rất khó khăn do khâu tính định mức. Những dự án đổi mới sáng tạo khoa học được đưa vào thực tiễn rất hiệu quả, tái tạo nguồn đất, nguồn nước, nhưng Nhà nước chỉ hỗ trợ phần nào đó, thí dụ như tổ chức các hội thảo nhân rộng mô hình, còn để đưa ra một chứng nhận nào cho đơn vị còn đang tắc. Như vậy, chủ trương đúng nhưng ngân sách Nhà nước không có.
Đối với nhận thức người dân, hiện nay các đổi mới sáng tạo, tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp thật sự chưa nhiều vì họ chưa thấy yêu cầu của thị trường.
Mô hình lúa-tôm là mô hình kinh tế thông minh, có hiệu quả kinh tế cao, nhưng cũng cần đầu tư bài bản để bảo đảm phát triển bền vững. (Ảnh minh họa: TTXVN)
Mô hình lúa-tôm là mô hình kinh tế thông minh, có hiệu quả kinh tế cao, nhưng cũng cần đầu tư bài bản để bảo đảm phát triển bền vững. (Ảnh minh họa: TTXVN)
Thí dụ thế này, sản phẩm của Bồ Đề Group hiện nay là công nghệ sinh học xử lý môi trường rất hiệu quả, giúp con tôm phát triển tốt hơn và lúa cũng tốt hơn trên cùng một héc-ta canh tác. Để tạo nên hiệu quả lâu dài, cần phải làm trên quy mô lớn. Nhưng đa phần các chương trình đổi mới sáng tạo làm theo chương trình, khi dừng là hết nguồn vốn để theo tiếp. Bởi vậy, việc ứng dụng công nghệ mới vào canh tác nông nghiệp, nếu không có chương trình dài hạn sẽ không đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, có quá nhiều sản phẩm cùng loại trên thị trường, vàng thau lẫn lộn nên người dân cũng không biết lựa chọn sử dụng sản phẩm công nghệ sinh học nào thật sự hiệu quả. Thí dụ, cùng loại phân vi sinh, nhưng có loại hàm lượng tốt hơn sẽ giá cao hơn nhưng người dân chỉ có thiên hướng cho rằng, đó là sản phẩm phân vi sinh và giá rẻ là mua.
Nếu chúng ta siết chặt về tiêu chuẩn chất lượng sau nhiều vụ phanh phui về hàng giả, hàng nhái vừa rồi, thì tôi nghĩ, những ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo như của Bồ Đề Group sẽ được người dân tin dùng.
Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia tự công bố sản phẩm. Đồng thời, với việc Nhà nước hỗ trợ chi phí công nhận quy trình sẽ thúc đẩy những đổi mới mang tính đột phá.
Đề án hiệu quả, nhưng bà con chưa mặn mà, địa phương cũng chưa có sự hỗ trợ hết mức cho bà con được dán nhãn cho lúa gạo giảm phát thải. Theo ông, khó khăn nằm ở đâu?
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích trồng lúa là 1,7 triệu ha. Khó khăn hiện nay là xác định diện tích canh tác của các địa phương tham gia đề án 1 triệu ha lúa. Hiện các tỉnh đang canh tác còn nhỏ và UBND các tỉnh chưa ra quyết định ban hành xác nhận diện tích canh tác lúa giảm phát thải theo đề án. Khi chưa có quyết định về mặt pháp lý, chúng ta chưa thu hút được nhiều người tham gia vào đề án.
Thứ hai, hiện Chính phủ sử dụng nguồn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường để triển khai đề án, không có ngân sách của Chính phủ. Bảy mô hình thí điểm rất thành công nhưng nhỏ, chỉ chừng 180 nghìn ha lúa. Trong khi đó, để triển khai trên quy mô lớn phải đầu tư rất nhiều về hệ thống hạ tầng (thủy lợi, các trạm bơm, đường giao thông, giao thông nội đồng…); đầu tư vốn.
Mô hình canh lúa chất lượng cao và giảm phát thải tại tỉnh An Giang.
Mô hình canh lúa chất lượng cao và giảm phát thải tại tỉnh An Giang.
Ngân hàng Thế giới dự kiến sẽ cho Việt Nam vay vốn triển khai đề án, nhưng thủ tục của chúng ta còn đang “tắc” ở mô hình quản lý. Nếu Bộ đứng ra vay, cấp phát lại cho tỉnh thì sai về chủ trương. Còn từng tỉnh, vì quy mô canh tác còn nhỏ nên vay vốn nhỏ, làm thủ tục cũng gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, các tỉnh dang tập trung triển khai đề án 1 triệu ha mạnh bằng nguồn lực sẵn có, tuy nhiên các tỉnh tập trung đầu tư về hạ tầng mà chưa chú ý tới phát triển mô hình, các tổ chức đại diện của nông dân như mô hình hợp tác xã. Chỉ khi người nông dân tham gia hợp tác xã theo quy mô thành viên lớn thì lợi nhuận tham gia cho đề án càng cao. Thí dụ, với một hợp tác xã chỉ có 50 thành viên sẽ cùng đầu tư giống lúa, thiết bị đo mực nước… thì nguồn vốn đầu tư sẽ rẻ hơn, tạo ra doanh thu carbon dễ hơn. Bộ đang lồng ghép các nội dung qua tập huấn để các địa phương đầu tư đúng mức.
Thứ tư, tôi muốn nhấn mạnh rằng, đề án 1 triệu ha lúa không phải sản xuất bán tín chỉ carbon mà quan trọng nhất là tái tạo cấu trúc ngành lúa phát triển bền vững. Tín chỉ carbon chỉ là một phần nằm trong đó và là câu chuyện của phía sau việc thay đổi phương thức canh tác giảm phát thải.
Tạo sức cạnh tranh cho gạo giảm phát thải của Việt Nam
Để xây dựng thương hiệu “lúa carbon thấp” mang tính quốc gia và quốc tế, theo ông, cần có chiến lược xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc và tiếp cận thị trường như thế nào để bà con thật sự đặt niềm tin và cùng đi con đường trồng lúa giảm phát thải?
Để xây dựng thương hiệu “lúa carbon thấp”, Ngân hàng Thế giới, Hiệp hội ngành hàng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang làm nhãn hiệu gạo giảm phát thải, low carbon. Theo đó, việc xác định tiêu chuẩn chất lượng phải được Hội đồng quốc gia Việt Nam thống nhất theo bộ tiêu chí, sau đó được một bên đơn vị độc lập đánh giá công nhận thì chúng ta mới quảng bá nó. Muốn làm chương trình thương hiệu gạo tầm quốc gia cần nhà nước hỗ trợ. Với các doanh nghiệp, để tiến tới quy trình này, cần phải xác định canh tác theo đúng tiêu chí sản xuất gạo sạch, low carbon, gạo organic theo tiêu chuẩn châu Âu và được Chính phủ đồng thuận.
Tôi vừa đi họp ở Philippines về và thấy một vấn đề rất lớn. Việt Nam là nước đầu tiên nói và làm về lúa giảm phát thải nhưng chưa chắc ta là người đi đến đích đầu tiên.
Hiện, Thái Lan đã triển khai nông nghiệp lúa phát thải thấp – hay còn gọi là climate-smart rice tới vụ thứ 2. Chính phủ Thái Lan đang triển khai mô hình tài chính toàn diện gồm: ngân sách quốc gia-quỹ quốc tế-đối tác tư nhân-tín dụng-trợ cấp công, giúp nông dân áp dụng hiệu quả quy trình giảm phát thải và hướng tới thị trường tín chỉ carbon.
Để người dân tích cực tham gia chương trình 1 triệu ha lúa hơn, cần phải xây dựng chuỗi doanh nghiệp-hợp tác xã-nông dân, trong đó có tính phương án dài hơi cho tất cả các khâu, từ giống lúa đầu vào, cho tới phương pháp ngập khô xen-kẽ, thu hồi rơm và phân phối.
Người nông dân Việt Nam chúng ta không tham gia theo quy trình 1 triệu ha lúa nếu không thấy lợi nhuận và lợi ích. Thực tế, nguồn giống xác nhận hiện nay không có đủ cho thị trường và chúng ta phải giải quyết bài toán này bằng cách tổ chức các tổ sản xuất giống của cộng đồng và bán cho thành viên trong hợp tác xã, mỗi ký sẽ trả tiền bản quyền giống.
Tương tự, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phải có một nền tảng số chung để đo lượng giảm phát thải khí nhà kính. Nếu mỗi tỉnh làm một nền tảng riêng đòi hỏi chi phí đầu tư rất lớn mà không hiệu quả, người nông dân gặp khó khăn.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng, hướng đi phát triển nông nghiệp bền vững.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng, hướng đi phát triển nông nghiệp bền vững.
Một điều rất quan trọng, chúng ta phải hình thành chuỗi doanh nghiệp-hợp tác xã-nông dân. Các thương lái, cò lúa không quan tâm tới lúa giảm phát thải mà họ chỉ quan tâm tới lợi nhuận thu mua để gia tăng nguồn lợi cho họ nhất. Vì thế, khi trồng lúa giảm phát thải, mình phải tính phương án dài hơi cho tất cả các khâu, từ giống lúa đầu vào, cho tới phương pháp ngập khô xen-kẽ, thu hồi rơm và phân phối.
Hiện nay, Thái Lan gần như sản xuất lúa theo quy trình giảm phát thải. Indonesia, Malaysia, Ấn độ cũng đang đi theo hướng này. Nếu chúng ta không làm nhanh, Ngân hàng Thế giới có thể sẽ rót vốn đầu tư cho các nước khác vay và như thế, chúng ta sẽ không có nguồn lực để theo đuổi chương trình dài hơi.
Chúng ta đang loay hoay vì Bộ không thể đứng ra vay nguồn ngân sách từ Ngân hàng thế giới rồi cấp phát cho địa phương. Còn tại địa phương, hiện mới chỉ triển khai trồng lúa theo Đề án 1 triệu ha ở quy mô nhỏ nên số vốn vay còn nhỏ, các tỉnh không mặn mà làm hồ sơ.
Theo Tiến sĩ, Đề án 1 triệu ha lúa có thể nhân rộng lên hàng triệu ha ra cả những cánh đồng ở khu vực sông Hồng không?
Ta không gói trong 1 triệu ha lúa tại đồng bằng sông Cửu Long mà mở rộng ra 1,7 triệu ha diện tích trồng lúa tại đây. Một số tỉnh nằm ngoài dự án cũng đang theo mô hình, mở rộng ra Tây Nguyên và tiến ra cả cánh đồng phía bắc.
Điều quan trọng nhất của đề án là thay đổi tập quán và nhận thức của người trồng lúa theo hướng bền vững. Với việc giảm lúa giống, giảm phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật, người nông dân trước tiên sẽ có lời và sau đó là đáp ứng với nhu cầu tiêu thụ gạo của thị trường. Người dân có kiến thức, nhận thức về giảm phát thải, sẵn sàng chi trả để mua sản phẩm gạo giảm phát thải với giá cao hơn.
Cấy lúa bằng máy trên cánh đồng lúa chất lượng cao tại Hợp tác xã Thuận Tiến, xã Thạnh An.
Cấy lúa bằng máy trên cánh đồng lúa chất lượng cao tại Hợp tác xã Thuận Tiến, xã Thạnh An.
Khi chúng ta bán 500 tấn gạo đầu tiên có nhãn xanh sang Nhật Bản, kết quả khảo sát người tiêu dùng tại Nhật Bản cho thấy, các doanh nghiệp khi thấy nhãn xanh là họ biết tạo được sản xuất với quy trình thân thiện môi trường, có tâm lý thích mua hơn.
Ngành nông nghiệp được xem là ngành sẽ mang lại nhiều tín chỉ carbon nhất. Theo ông, điều gì là yêu cầu quan trọng nhất để hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon trong nông nghiệp, đồng thời tránh tâm lý “lạm dụng tín chỉ carbon” chỉ để bán?
Khung pháp lý thị trường carbon đến năm 2027 mới đưa vào thực tiễn. Hiện chúng ta còn đang sửa các Nghị định. Chúng ta phải làm được rõ các thang đo, thẩm định về tín chỉ carbon và phải được thế giới công nhận. Đây là một quá trình dài hơi và Chính phủ phải có vai trò lớn trong việc đi marketting với thế giới về sản phẩm tín chỉ carbon từ lúa.
Hiện cả thế giới và Việt Nam đều chưa có MAV đo tín chỉ carbon trong trồng lúa. Bộ Nông nghiệp và Môi trường hiện giao Viện môi trường, thế giới tư vấn nhưng Bộ Nông nghiệp chưa thông qua được. Vì chưa được pháp lý công nhận, nên chúng ta chưa thể bán được tín chỉ carbon từ lúa.
Xin cảm ơn Tiến sĩ Trần Minh Hải!
Ngày đăng: 11/10/2025
Thực hiện: MINH NHẬT, THẢO LÊ, THIÊN LAM
Ảnh: THẾ ANH, TƯ LIỆU CTV, BÁO NHÂN DÂN...
Trình bày: PHƯƠNG NAM