Từ chiến thắng Điện Biên Phủ đến giải phóng Thủ đô, đỉnh cao của cuộc đấu tranh trên các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ra mắt quốc dân đồng bào sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng tại Quảng trường Ba Đình, ngày 1/1/1955. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ra mắt quốc dân đồng bào sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng tại Quảng trường Ba Đình, ngày 1/1/1955. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III

Đại tá PGS, TS Trần Ngọc Long
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam

Tham luận tại Hội thảo 60 năm giải phóng Thủ đô thành tựu, thời cơ, thách thức và phát triển

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn những nỗ lực chiến tranh của Thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng. Một ngày sau đó, Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức khai mạc.

Sau những cuộc đấu trí, tranh luận căng thẳng, đêm 20 rạng ngày 21 tháng 7 năm 1954, đại diện các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã ký vào Bản tuyên bố cuối cùng (trừ Mỹ) về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Thế nhưng phải đến 80 ngày sau - những binh lính Pháp cuối cùng mới rời khỏi Hà Nội.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954, cả Hà Nội rợp bóng cờ hoa, hân hoan chào đón thời khắc lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc trường chinh đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất oanh liệt và vẻ vang của nhân dân Thủ đô nói riêng, cả nước nói chung.

Trong khoảng thời gian từ sau Chiến thắng Điện Biên Phủ cho đến “ngày trở về” đó, quân và dân Hà Nội đã cùng với các địa phương trong cả nước phải trải qua một cuộc đấu tranh căng thẳng trên các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nhằm bảo vệ những thành quả của cuộc kháng chiến 9 năm, đặc biệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ, mang lại.

Các đơn vị xung kích trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

Các đơn vị xung kích trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh: TTXVN

Các tầng lớp nhân dân Thủ đô chào đón bộ đội giải phóng sáng 10-10-1954.

Các tầng lớp nhân dân Thủ đô chào đón bộ đội giải phóng sáng 10-10-1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn chí mạng giáng vào ý chí xâm lược, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, buộc Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải chấp nhận nói chuyện một cách nghiêm túc, sòng phẳng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Ảnh: TTXVN

Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn chí mạng giáng vào ý chí xâm lược, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, buộc Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải chấp nhận nói chuyện một cách nghiêm túc, sòng phẳng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương. Ảnh: TTXVN

Như nhiều người đã biết, ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết. Hiệp định này có tác động rất lớn tới việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương trong chính trường nước Pháp.

Tại cuộc họp bàn về vấn đề Đông Dương của Quốc hội Pháp diễn ra từ ngày 23 đến 27/10/1953, nhiều nghị sĩ đã lên tiếng đòi thương lượng với Việt Minh để đi đến kết thúc chiến tranh. Trong khi đó thì phái chủ chiến mặc dù đã cảm nhận được rằng khó có thể đánh bại được lực lượng kháng chiến Việt Minh, nhưng họ vẫn ngoan cố theo đuổi cuộc chiến; hy vọng cùng với sự viện trợ và sự giúp đỡ toàn diện của Mỹ có thể giành lấy một thắng lợi về quân sự, buộc Chính phủ Hồ Chí Minh phải chấp nhận đàm phán theo những yêu cầu có lợi cho Pháp. Niềm hy vọng đó được “gửi gắm” vào những tính toán chiến lược táo bạo của Navare, trong đó có canh bạc Điện Biên Phủ.

Tuy nhiên, trải qua 56 ngày đêm cầm cự, chiều ngày 7/5/1954, Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã bị thất thủ; kéo theo đó là làm tiêu tan mọi hy vọng của cả giới cầm quyền lẫn bộ máy điều hành chiến tranh ở Pháp và Mỹ.

Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam đã đập tan Kế hoạch Navare - cố gắng chiến tranh cao nhất, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng đó là một đòn chí mạng giáng vào ý chí xâm lược, âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, buộc Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phải chấp nhận nói chuyện một cách nghiêm túc, sòng phẳng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc tìm giải pháp cho vấn đề Đông Dương.

Những dấu mốc quan trọng trong đàm phán Hiệp định Geneva ảnh 3

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng kiêm Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, sáng 8/5/1954, với tư thế của một dân tộc chiến thắng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng kiêm Quyền Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tại phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, sáng 8/5/1954, với tư thế của một dân tộc chiến thắng. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Một ngày sau “sự kiện Điện Biên Phủ” (8/5/1954), Hội nghị Giơ-ne-vơ bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức khai mạc.

Tham dự Hội nghị có 9 nước: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc gia Việt Nam, Vương quốc Cămpuchia và Vương quốc Lào.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Hội nghị Giơ-ne-vơ trong tư thế của người chiến thắng với mục tiêu giành độc lập và hòa bình cho Việt Nam, Lào và Cămpuchia. Tuy nhiên, lần đầu tiên tham gia một diễn đàn đa phương do các nước lớn chi phối; vả lại mỗi nước đến Hội nghị đều mang theo những toan tính riêng, đặc biệt là 4 nước lớn. Chính vì vậy mà chúng ta đã không phát huy được hết những lợi thế mà chiến thắng Điện Biên Phủ cùng những chiến thắng khác trên chiến trường mang lại.

Quang cảnh phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, ngày 8/5/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Quang cảnh phiên khai mạc Hội nghị Geneva về Đông Dương, ngày 8/5/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Giữa lúc Hội nghị Giơ-ne-vơ đang thảo luận rất căng thẳng xung quanh vấn đề chấm dứt chiến tranh Đông Dương thì ngày 11/5/1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra chỉ thị về khuyếch trương thắng lợi Điện Biên Phủ, trong đó nêu rõ: “Trong vùng tạm bị chiếm, động viên quần chúng tích cực chống địch bắt lính, vơ vét, chống Mỹ tăng cường can thiệp, vạch mặt bù nhìn, kết hợp với đẩy mạnh phong trào quần chúng đòi địch chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương bằng cách thành thật thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh, ủng hộ lập trường của Đoàn đại biểu ta ở Hội nghị Giơ-ne-vơ. Kiên quyết phấn đấu đến cùng cho độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình ở Việt Nam”[1].

Kiên quyết phấn đấu đến cùng cho độc lập, thống nhất, dân chủ và hòa bình ở Việt Nam.

Thấu triệt tinh thần trên, vào những ngày cuối tháng 5/1954, quân và dân các địa phương trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ và Hà Nội đã đẩy mạnh đấu tranh quân sự, buộc quân Pháp phải thu hẹp phạm vi chiếm đóng. Tại Hà Đông và Sơn Tây, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với các trung đoàn 254 và 46 chủ lực Liên khu bức rút nhiều đồn bốt trên địa bàn, nối thông các khu du kích Đan Phượng với Phúc Thọ.

Cùng với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị cũng được đẩy mạnh và mang lại hiệu quả thiết thực, trong đó đáng chú ý là công tác binh, địch vận.

Lúc này tại Hà Đông và Sơn Tây, ta đã thành lập được hàng chục đội công tác binh vận và nhanh chóng đưa xuống các huyện, thị để gây dựng cơ sở, tuyên truyền vận động, ngăn cản bắt lính...

Đội thanh niên công tác tiếp quản Thủ đô. (Ảnh: Báo Hà Nội mới)

Đội thanh niên công tác tiếp quản Thủ đô. (Ảnh: Báo Hà Nội mới)

Tại Hà Nội, gần 1000 học sinh các trường trung học như Bưởi, Minh Tân, Khai Thành, Tây Sơn... cùng với sinh viên các trường đại học xuống đường chống “quân sự hóa học đường”, chống bắt lính, vận động những người lầm đường lạc lối trở về. Đặc biệt là tại đây, Thành ủy đã phát động một phong trào quần chúng đấu tranh sôi sục đòi hòa bình, đòi nhà cầm quyền Pháp phải có thiện chí và nghiêm túc trong thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhiều trí thức nổi tiếng của Hà Nội như Phạm Khắc Quảng, Vũ Đình Khoa, Trần Văn Lai, Bùi Tường Chiểu, Vũ Văn Hiền... đã ký vào bản kiến nghị đòi hòa bình gửi sang Paris cho nhà cầm quyền Pháp.

Tình hình diễn biến tại chiến trường Bắc Bộ xấu đi một cách nhanh chóng kể từ sau “sự kiện Điện Biên Phủ”. Trong bối cảnh đó, Bộ chỉ huy quân Pháp chủ trương thu hẹp phạm vi chiếm đóng, buộc phải lệnh cho các đơn vị co về giữ một số khu vực trọng yếu như Hà Nội, Hải Phòng, dọc trục tuyến Đường 5. Để tránh xảy ra một “Điện Biên Phủ mới” ở Hà Nội, Paris cho phép Tổng chỉ huy Navare được toàn quyền quyết định việc triệt thoái khỏi Hà Nội khi cần thiết.

Cuối tháng 6, đầu tháng 7/1954, trong khi tại Hà Nội và các chiến trường khác ở Đông Dương, hoạt động quân sự và các phong trào đấu tranh chính trị đang diễn ra hết sức sôi động thì tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, các cuộc thương lượng gần như vẫn dẫm chân tại chỗ, quan điểm của hai phía và các giải pháp cho vấn đề Đông Dương của các bên còn khác xa nhau khá nhiều. Thời gian này chủ yếu diễn ra các cuộc gặp song phương không chính thức; trong đó đáng chú ý có cuộc gặp tại Liễu Châu giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Chu Ân Lai (từ ngày 3 đến ngày 5/7) “để trao đổi một số ý kiến và nghiên cứu những biện pháp thích hợp với tình hình Đông Dương và tình hình quốc tế hiện tại nhằm đạt tới việc lập lại hòa bình”[2].

Trải qua hai tháng rưỡi đàm phán với 8 phiên họp chính thức và 23 phiên họp phụ Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng đã đạt được kết quả cuối cùng.

Trải qua hai tháng rưỡi đàm phán với 8 phiên họp chính thức và 23 phiên họp phụ Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng đã đạt được kết quả cuối cùng. Hội nghị thông qua bản Tuyên bố về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương gồm 13 điều, trong đó có một số điều đáng chú ý như: Pháp cam kết rút hết quân, tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia; lấy Vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam; tổng tuyển cử sẽ được tiến hành sau 2 năm...

Đại diện tám đoàn tham gia ký vào các văn kiện của Hội nghị; riêng đoàn Mỹ không chịu ký vào bản tuyên bố chung cuối cùng mà chỉ ra một tuyên bố ghi nhận.

Hành động của đoàn Mỹ cho thấy sự phản ứng đối với kết quả của Hội nghị, nhưng xa hơn thế đó là bước dọn đường cho việc không thi hành Hiệp định để hất cẳng và thế chân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Đoàn Việt Nam DCCH tham dự Hội nghị Geneva về Đông Dương chụp ảnh chung tại trụ sở phái đoàn ở Villa Cadre. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Đoàn Việt Nam DCCH tham dự Hội nghị Geneva về Đông Dương chụp ảnh chung tại trụ sở phái đoàn ở Villa Cadre. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Với Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt được mục tiêu căn bản nhất - đó là buộc Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, rút hết quân; Pháp và các nước khác phải công nhận các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam: Độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ - điều mà 9 năm trước, tại Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Pháp đã không chịu chấp nhận.

Chúng ta có một miền Bắc hoàn toàn được giải phóng làm cơ sở để xây dựng thành hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến cách mạng về sau này. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế và có vai trò quan trọng trong Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế và có vai trò quan trọng trong Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Hiệp định Giơ-ne-vơ cũng đã tạo ra một cơ sở pháp lý và chỗ dựa về đạo lý để nhân dân Việt Nam đấu tranh với Mỹ trong cuộc trường chinh 21 năm sau đó. Hiệp định Giơ-ne-vơ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các nước xã hội chủ nghĩa và Phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Hiệp định Giơ-ne-vơ được ví như một cuộc “hưu chiến” cần thiết để chúng ta củng cố, phát triển thế và lực chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng rằng hòa bình đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hòa bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được”[3].

Chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng rằng hòa bình đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hòa bình cũng như độc lập phải đấu tranh gian khổ mới giành được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hiệp định Giơ-ne-vơ đã buộc quân Pháp phải rút khỏi miền Bắc, nhưng theo quy định thì Hà Nội vẫn nằm trong vùng tập kết 80 ngày của quân đội Pháp.

Liên quan vấn đề này không thể không đề cập đến Hội nghị quân sự Trung Giã họp từ ngày 4 đến 27/7/1954 giữa Đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Đoàn đại biểu Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Liên hiệp Pháp bàn những những vấn đề quân sự do Hội nghị Giơ-ne-vơ đặt ra nhằm thực hiện cụ thể hóa việc ngừng bắn và chuyển quân đã được thỏa thuận. Theo đó, trong việc chuyển giao Hà Nội, phía Pháp phải chịu trách nhiệm tạo mọi điều kiện cho các hoạt động phục vụ công cộng như điện, nước, giao thông... diễn ra bình thường sau khi quân Pháp rút. Các ông chủ của các lĩnh vực trên phải đến cam kết ngay tại diễn đàn Hội nghị.

Khai mạc Hội nghị Quân sự Trung Giã, ngày 4/7/1954. Ảnh: hoalo.vn

Khai mạc Hội nghị Quân sự Trung Giã, ngày 4/7/1954. Ảnh: hoalo.vn

Tuy nhiên, với âm mưu trước sau như một của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là gây khó khăn toàn diện cho công cuộc tiếp quản Hà Nội, cố tình tìm mọi cách làm rối loạn trung tâm đầu não chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa-xã hội này... thì những cam kết trên đã bị phía Pháp vi phạm một cách nghiêm trọng cũng là điều dễ hiểu.

80 ngày là khoảng thời gian mà cả Pháp và Mỹ, mặc dù có mâu thuẫn với nhau, nhưng đều đã triệt để lợi dụng để một mặt mua chuộc, lôi kéo, cài người vào hàng ngũ của đối phương, kích động nhân dân...; mặt khác, tàn phá Hà Nội, gây khó khăn trước mắt và lâu dài cho công tác tiếp quản và khôi phục thành phố.

Âm mưu thâm độc và sâu xa của cả Pháp và can thiệp Mỹ là tìm mọi cách làm cho Hà Nội bị rối loạn về chính trị; xơ xác, tiêu điều về bộ mặt đô thị; tê liệt mạng lưới dịch vụ công cộng; kiệt quệ về kinh tế... trước khi lực lượng cách mạng vào tiếp quản thành phố.

Âm mưu thâm độc và sâu xa của cả Pháp và can thiệp Mỹ là tìm mọi cách làm cho Hà Nội bị rối loạn về chính trị; xơ xác, tiêu điều về bộ mặt đô thị; tê liệt mạng lưới dịch vụ công cộng; kiệt quệ về kinh tế... trước khi lực lượng cách mạng vào tiếp quản thành phố.

Để đạt được điều đó, về chính trị, bộ máy tuyên truyền của địch tập trung xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với những người phục vụ cho chế độ cũ, giới tiểu thương, học sinh, sinh viên và đặc biệt là giới tri thức; đẩy mạnh việc lôi kéo, cưỡng ép và cổ súy cho làn sóng di cư vào Nam; sử dụng bọn lưu manh, các phần tử thoái hóa trà trộn trong dân tung tin đồn nhảm, gây sự nghi kỵ lẫn nhau, phá hoại khối đại đoàn kết; dùng thủ đoạn mờ ám trong trao trả tù binh...

Về kinh tế, địch tìm mọi cách di chuyển các cơ sở vật chất-kỹ thuật, các cơ sở sản xuất, tài liệu máy móc, hệ thống kho tàng ra khỏi thành phố. Trắng trợn hơn, chúng còn ngừng cung cấp than cho các nhà máy điện, ngừng cung cấp nước... gây khó khăn cho đời sống người dân thành phố; làm tê liệt hệ thống giao thông, gây trì trệ cho sản xuất.

Về quân sự, chúng tiến hành “quân sự hóa” công chức và sinh viên; huy động lực lượng quân đội đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng; trang bị vũ khí, điện đài và hỗ trợ cho các băng nhóm phản động hoạt động. Cái gọi là “Phái đoàn quân sự Sài Gòn - SMM) có trụ sở ở Hà Nội đã lên kế hoạch phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hóa ở Hà Nội, trong đó có một số mục tiêu quan trọng như: Các nhà máy điện, máy nước, cầu Long Biên, cảng sông Hồng. Ngang ngược hơn, ngày 12/9/1954, địch cho nổ mìn phá Chùa Một Cột - một công trình kiến trúc, văn hóa tâm linh lâu đời ở Hà Nội.

Do sự kiểm soát gắt gao của địch nên tại Hà Nội thời điểm này công tác chuẩn bị cho tiếp quản gặp rất nhiều khó khăn. Có thể nói chỉ trong vòng 80 ngày, Đảng bộ, quân và dân Hà Nội phải giải quyết hàng “núi” công việc trong một bối cảnh hết sức phức tạp: kẻ địch điên cuồng chống phá, nhiều công việc hoàn toàn mới mẻ, chính quyền cơ sở chưa được thiết lập đầy đủ, lực lượng cán bộ vừa thiếu trầm trọng lại chưa có kinh nghiệm tiếp thu và giải quyết công việc ở đô thị.

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô, tại Lễ chào cờ đầu tiên trong Ngày giải phóng Hà Nội, diễn ra tại sân Cột Cờ (nay là Đoan Môn-Hoàng thành Thăng Long) vào lúc 15 giờ ngày 10/10/1954. Ảnh: TTXVN

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô, tại Lễ chào cờ đầu tiên trong Ngày giải phóng Hà Nội, diễn ra tại sân Cột Cờ (nay là Đoan Môn-Hoàng thành Thăng Long) vào lúc 15 giờ ngày 10/10/1954. Ảnh: TTXVN

Ở nội thành Hà Nội thời điểm này chỉ có 65 đảng viên, 593 đoàn viên thanh niên hoạt động trong các tổ chức Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ và một số hội viên công chức, văn nghệ sỹ, tri thức trung kiên...[4]

Trong khi đó thì cơ quan quân sự Hà Nội cũng đã đã được thu gọn, chỉ còn 30 người với khoảng hơn ba chục quân cơ động. Điều đáng nói là lúc này, lực lượng tự vệ ở cơ sở quá mỏng, thậm chí một số nơi hầu như không còn.

Trước tình hình đó, Thành ủy Hà Nội đã kịp thời có những chủ trương đúng đắn về công tác tiếp quản, trong đó tập trung vào công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng bộ và toàn dân về tình hình nhiệm vụ mới; nhanh chóng kiện toàn hệ thống chỉ đạo, chỉ huy, tăng cường cán bộ cho cơ sở; mở rộng mặt trận đại đoàn kết nhằm huy động sức mạnh tổng hợp, đáp ứng yêu cầu của công tác tiếp quản trước mắt và tái thiết thành phố lâu dài; đẩy mạnh công tác địch vận; phát động đấu tranh chống địch phá hoại cơ sở kinh tế, cưỡng ép di cư; xây dựng kế hoạch tiếp quản...

Các đơn vị bộ binh của Đại đoàn 308 tiến qua phố Hàng Gai vào Thủ đô, sáng 10/10/1954. Ảnh: TTXVN

Các đơn vị bộ binh của Đại đoàn 308 tiến qua phố Hàng Gai vào Thủ đô, sáng 10/10/1954. Ảnh: TTXVN

Riêng về công tác quân sự, để có đủ lực lượng làm nòng cốt hỗ trợ quần chúng đấu tranh bảo vệ tài sản, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh trật tự và phối hợp với bộ đội từ bên ngoài vào tiếp quản thành phố, Thành ủy chủ trương đẩy nhanh việc phát triển lực lượng tự vệ; điều trở lại cơ quan quân sự số cán bộ trước đây đã chuyển sang các ngành khác; triển khai đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quân sự ngay tại chỗ kết hợp với yêu cầu Bộ Tổng tư lệnh bổ sung tăng cường cán bộ quân sự gấp. Việc phát triển “nóng” lực lượng tự vệ được ưu tiên trước mắt cho các trọng điểm như nhà máy điện, nhà máy nước, nhà máy đèn, công sở, kho tàng... những nơi mà kẻ địch đang tìm mọi cách để phá hoại hoặc lấy đi trước lúc rời thành phố.

Đến ngày 10/10/1954, chỉ riêng ở nội thành Hà Nội, ta đã tổ chức được 20 đơn vị tự vệ với 934 đội viên ở 5 nhà máy, xí nghiệp, 3 công sở, 2 nhà ga, bến cảng, 2 bệnh viện và 8 khu, xóm lao động. Ở các huyện, xã ngoại thành cũng đã tổ chức được các đơn vị tự vệ tại 110 trên tổng số 136 thôn, với quân số xấp xỉ 2.000 đội viên[5].

Là một trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại của đất nước, bởi vậy thành công của việc tiếp quản Hà Nội có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến các khu tập kết 200 ngày, 300 ngày khác; tác động đến diễn biến tình hình sau đó; đồng thời ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

Do tầm quan trọng của việc tiếp quản Hà Nội nên Đảng, Chính phủ và các cơ quan, ban ngành Trung ương đã dành sự quan tâm đặc biệt cho Hà Nội triển khai công tác này. Cùng với việc kịp thời bổ sung, tăng cường lực lượng quân sự, Trung ương đã cử một số cán bộ dày dạn kinh nghiệm như: Võ Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Xuân Thủy, Tố Hữu về trực tiếp chỉ đạo công tác tiếp quản Hà Nội. Hội đồng Chính phủ có hẳn một nghị quyết về tiếp quản Hà Nội.

Hàng trăm cán bộ được bồi dưỡng cấp tốc về công tác tiếp quản từ các lớp học ở Việt Bắc, Liên khu 3 đã được đưa về tăng cường cho bộ máy tiếp quản Hà Nội.

Dù bộn bề công việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thu xếp gặp và căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô.

Ủy ban Quân chính Hà Nội vừa mới được thành lập ngày 17/9/1954 cũng đã cấp tốc bồi dưỡng cho hàng trăm cán bộ làm công tác tiếp quản.

Bác Hồ về thăm và nói chuyện với cán bộ công nhân viên ngành điện năm 1954. Ảnh tư liệu EVN

Bác Hồ về thăm và nói chuyện với cán bộ công nhân viên ngành điện năm 1954. Ảnh tư liệu EVN

Trong khoảng thời gian từ trung tuần tháng 8 đến cuối tháng 9, phong trào đấu tranh của công nhân các ngành điện, nước, giao thông ở Hà Nội càng trở nên quyết liệt và không còn bó hẹp trong phạm vi cơ quan, nhà máy, xí nghiệp mà đã có sự liên kết giữa các ngành, giữa công nhân với viên chức, giữa công nhân với các tầng lớp nhân dân khác, giữa đấu tranh của quần chúng trong thành phố với đấu tranh của Phái đoàn ta trong Ủy ban Liên hiệp đình chiến tại Hội nghị Trung Giã.

Tại các trọng điểm như: Nhà máy điện Yên Phụ, nhà máy đèn Bờ Hồ, nhà máy nước, Bưu điện Bờ Hồ, Sở hỏa xa... được sự hỗ trợ của lực lượng tự vệ, công nhân cùng với một số công chức được giác ngộ đã kiên trì đấu tranh, vạch mặt và chặn đứng được âm mưu, thủ đoạn phá hoại, cướp tài sản, máy móc mang đi của giới chủ và quân Pháp.

Một nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ, quân và dân Hà Nội lúc này là vận động công nhân, công chức và đội ngũ trí thức ở lại làm việc, gắn bó lâu dài với Hà Nội, không để địch lôi kéo, vận động di cư vào Nam.

Trước tình hình địch đang hoang mang cực độ, ta chủ trương đẩy mạnh mũi đấu tranh binh vận, coi đó là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Trên mặt trận này, chỉ tính từ ngày Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết cho đến ngày 10/10, Hà Nội đã vận động làm rã ngũ trên 12 ngàn sĩ quan, binh lính địch, thu được hơn 350 khẩu súng các loại, 35 tấn đạn, 12 tấn dụng cụ máy móc...

Có thể nói, với sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng và Chính phủ, của Bác Hồ; sự chi viện có hiệu quả của các địa phương, ban, ngành trung ương; tinh thần cách mạng cao; sự chuẩn bị khẩn trương nhưng hiệu quả của Đảng bộ, quân và dân Hà Nội nên quá trình tiếp quản đã diễn ra an toàn, nhanh gọn; đặc biệt là các vị trí quân sự cùng 129 công sở, xí nghiệp, bệnh viện, trường học. Một Hà Nội không bị tàn phá; đời sống sinh hoạt không bị đảo lộn; mọi guồng máy hoạt động của thành phố vẫn được duy trì; trật tự trị an vẫn được đảm bảo hiện hữu trong ngày nhân dân Thủ đô vui mừng đón chào năm cánh quân vào tiếp quản Thủ đô. Đó là kết quả của một quá trình đấu tranh không mệt mỏi và hết sức sáng tạo trên các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao của quân và dân Hà Nội cùng với cả nước.

Các đơn vị thuộc Đại đoàn 308 tiếp quản Hà Nội tiến hành nghi lễ chào cờ đầu tiên trong Ngày giải phóng Thủ đô, diễn ra tại sân Cột Cờ (nay là Đoan Môn-Hoàng thành Thăng Long) vào lúc 15 giờ ngày 10/10/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Các đơn vị thuộc Đại đoàn 308 tiếp quản Hà Nội tiến hành nghi lễ chào cờ đầu tiên trong Ngày giải phóng Thủ đô, diễn ra tại sân Cột Cờ (nay là Đoan Môn-Hoàng thành Thăng Long) vào lúc 15 giờ ngày 10/10/1954. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

[1] Tài liệu chỉ đạo đấu tranh vũ trang của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy (1945-1954). BTTM xuất bản. T.6. Tr 263.

[2] Viện LSQSVN: Lịch sử cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954. T.2. QĐND.1994.Tr.472.

[3] Hồ Chí Minh toàn tập, T.6. Nxb CT-QG. Tr.376,

[4] Quân khu Thủ đô: Thủ đô Hà Nội -Lịch sử Kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Nxb Hà Nội.1986. Tr.325.

[5] Sdd: Tr. 334

Trình bày: BẢO MINH