TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin để sáng lập, xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cách mạng chân chính, kiên cường, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử đối với đất nước và dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở, dành mối quan tâm đặc biệt đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người sớm chỉ ra những nguy cơ bên trong đối với một Đảng cộng sản cầm quyền, nêu rõ các nguyên tắc xây dựng Đảng, các quy luật tồn tại và phát triển của Đảng nhằm xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện.
Xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền
Xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền, luôn là mối quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ buổi sơ khai, tạo dựng tiền đề để thành lập Đảng (1927), Người nhấn mạnh: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh những điều cốt yếu khi đề cập về vấn đề xây dựng Đảng một cách xuyên suốt và có hệ thống.
Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Đường lối chính trị là vấn đề cốt lõi quyết định sự tồn tại, phát triển và vai trò cầm quyền của Đảng. Đường lối chính trị của Đảng phải phản ánh đúng quy luật khách quan, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn, phù hợp nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được mục tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng, trên cơ sở đó tập hợp, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cách mạng để biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành hiện thực cuộc sống. Xây dựng Đảng về chính trị trước hết là hoạch định đường lối của Đảng - cả đường lối chính trị chung và đường lối trong từng lĩnh vực.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định nguyên tắc tư tưởng của Đảng ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt” và “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Nguyên tắc này là cơ sở lý luận, là nền tảng tư tưởng của Đảng, mọi đảng viên đều phải hiểu rõ và làm theo. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ: Nắm vững và thực hiện nguyên tắc này không phải theo cách giáo điều, mà phải vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với những điều kiện của Việt Nam, giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Sự vững mạnh của Đảng là ở sức mạnh đoàn kết, nhất trí trong Đảng về quan điểm, lập trường chính trị, sự vững vàng về thế giới quan, hệ tư tưởng, về tính tổ chức kỷ luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, sức mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, đồng thời phải giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm phải gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, củng cố, tăng cường các nguyên tắc của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Cùng với nguyên tắc “tập trung dân chủ” là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng thì “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” được xác định là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng. Đây là nguyên tắc mà các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng phải thực hiện. Nguyên tắc tập trung dân chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt giản dị như sau: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung"; và theo đó, “lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.
Trong các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ đó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng”.
Người cũng đề ra các nội dung thực hiện tự phê bình và phê bình: Mục đích, Phương hướng, Trọng tâm, Cách làm. Trong đó, Cách làm bắt đầu từ Thống nhất tư tưởng, “phải đánh thông tư tưởng. Tức là làm cho mọi người hiểu rõ mục đích và lợi ích của cuộc kiểm thảo, làm cho mọi người hǎng hái tham gia, để tránh tình trạng tiêu cực, lo ngại, rụt rè”; phải “nghiên cứu những tài liệu về lý luận, để giúp mọi người hiểu thấu sự ích lợi và cần thiết của kiểm thảo; và những tài liệu về chính sách của Đảng và Chính phủ, để lấy đó làm cǎn cứ mà kiểm thảo công việc của mỗi đơn vị, mỗi người”. “Khi tư tưởng thông rồi, tài liệu đã nghiên cứu kỹ, lúc đó mới kiểm thảo công việc, thật thà tự phê bình và phê bình”.
Và “kiểm thảo phải khởi đầu từ cấp trên, dần dần đến cấp dưới. Cán bộ cấp trên phải làm gương mẫu thật thà tự phê bình, phải hoan nghênh và khuyến khích mọi người phê bình mình, tức là phải thực hiện dân chủ rộng rãi. Từ trên xuống, rồi từ dưới lên”. “Trong kiểm thảo phải nêu rõ ưu điểm và khuyết điểm, làm cho việc phải việc trái rõ ràng, làm cho mọi người hiểu rõ và vui lòng thừa nhận”. “Ưu điểm thì phải khen, để mọi người bắt chước và phát triển. Khuyết điểm thì phải tùy nặng nhẹ mà xử trí cho đúng mực, để mọi người biết mà tránh. (Mục đích của kiểm thảo là giáo dục, cải tạo, nhưng không phải tuyệt đối không hề dùng kỷ luật). Những vấn đề đã đặt ra, cần tìm cách giải quyết cho đúng. Trong kiểm thảo, phải làm cho mọi người tự động, tự giác thật thà nêu khuyết điểm của mình, thành thật phê bình anh em. Kiểm thảo thì nhằm vào tư tưởng, lề lối làm việc, kết quả của công việc, chứ không nhằm vào cá nhân”.
Đoàn kết, thống nhất là một nguyên tắc trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhằm tạo ra sức mạnh của Đảng, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Theo Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của tập thể. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn sức mạnh, là khâu then chốt dẫn đến thành công của cách mạng. Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Để đảm nhiệm vai trò tiên phong, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ tất yếu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi: “Vì sao ta phải chỉnh Đảng?”. Theo Người, chỉnh Đảng trước hết vì yêu cầu về năng lực và phẩm chất để đáp ứng vai trò lãnh đạo của Đảng: “Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch, kiểu mẫu”.
Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng thường được Người đặt ra khi Đảng ta, dân tộc ta đứng trước tình hình và nhiệm vụ mới: đương đầu với một kẻ thù mới, một chiến lược mới của kẻ thù hoặc do những thiếu sót, khuyết điểm trong đường lối, chủ trương của Đảng hoặc thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối. Việc Đảng siết chặt đội ngũ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, chấn chỉnh tình trạng dao động, giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên, kiên định mục tiêu, lý tưởng, vượt qua khó khăn được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách khi cách mạng đứng trước thử thách. Khi cách mạng trên đà thắng lợi cũng cần chỉnh đốn Đảng. Trong trường hợp này, chỉnh đốn Đảng để khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, bất chấp quy luật. Chỉnh đốn Đảng để khắc phục tình trạng tự cao, tự đại, phòng, chống bệnh “kiêu ngạo cộng sản” theo cách nói của Lênin.
Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
Với một Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng liên quan chặt chẽ đến sự ổn định và phát triển không chỉ ở trong Đảng mà còn đối với toàn xã hội. Người yêu cầu phải lựa chọn khâu quyết định, có trọng tâm, trọng điểm với nguyên tắc phải bắt đầu từ chỉnh đốn tư tưởng, rồi mới chỉnh đốn tổ chức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm:
- Chỉnh huấn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ.
- Chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức.
- Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trung ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng…”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa chỉnh đốn tư tưởng, chỉnh đốn tổ chức với chỉnh đốn tác phong, lề lối làm việc. Người yêu cầu phải chỉnh đốn tư tưởng và tác phong để sửa chữa những nhược điểm và khuyết điểm, phát huy ưu điểm, làm cho “mọi người, mọi việc dần tiến bộ hơn”. Những vấn đề liên quan đến tác phong, lề lối làm việc cần phải chỉnh đốn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập là: lời nói đi đôi với việc làm, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, tác phong làm việc, tác phong lãnh đạo, tác phong sinh hoạt. Nguyên tắc quan trọng nhất quy định tính hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng là sự thống nhất giữa nói và làm, giữa nội dung nghị quyết và tính hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ Đảng Cộng sản Việt Nam “là một Đảng cầm quyền” để chỉ rõ nguồn gốc, bản chất và xác lập vị thế, vai trò của Đảng ta với tư cách là tổ chức đảng duy nhất trong hệ thống chính trị ở Việt Nam nắm giữ quyền lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là điều căn cốt nhất giúp Đảng ta trở thành một Đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo cách mạng, “là đạo đức, là văn minh”.
TƯ CÁCH CỦA ĐẢNG CHÂN CHÍNH CÁCH MẠNG:
1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.
2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng, và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau.
3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương.
4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không.
5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân.
6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng.
Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng.
7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát.
Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng.
8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên.
9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo.
10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài.
11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng.
12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng.
"Muốn cho Đảng được vững bền
Mười hai điều đó chớ quên điều nào".
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 5, tr. 289-290)
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân
Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện những nguy cơ trong nội bộ Đảng, trong đó, sự suy thoái của một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong bộ máy chính quyền cách mạng, chủ yếu là suy thoái về đạo đức, lối sống, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân.
Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những biểu hiện của căn bệnh chủ nghĩa cá nhân:
“- Bệnh kiêu ngạo phá hoại Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Nó làm Đảng xa dân, kìm hãm sự tiến bộ.
- Bệnh địa phương cục bộ làm tổn hại lợi ích chung, phá vỡ sự điều hành quản lý vĩ mô.
- Óc bè phái làm nội bộ mất đoàn kết, làm Đảng mất cán bộ và hỏng việc, những người tài đức không được dùng nếu không là “cánh hẩu” với người lãnh đạo...
- Bệnh quân phiệt quan liêu là bệnh có nguồn gốc sâu xa, tồn tại dai dẳng và gây tác hại to lớn lâu dài. Đây là sự tha hóa của con người khi có quyền lực và lạm dụng quyền lực.
- Óc hẹp hòi thể hiện ở nhiều dạng vẻ khác nhau nhưng đều cản trở công việc chung, người hẹp hòi thì ít kẻ giúp, đoàn thể hẹp hòi thì không thể phát triển.
- Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, làm trái phép nước, coi thường pháp luật. Cán bộ mắc bệnh này làm dân mất lòng tin vào Đảng, vào Chính quyền, vào pháp luật.
- Ích kỷ, tham nhũng, hủ hóa là những căn bệnh nguy hiểm rất dễ mắc và rất phổ biến”.
Sau này, Người nhiều lần nhắc lại chủ đề chống chủ nghĩa cá nhân trong các tác phẩm: Phải tẩy sạch bệnh quan liêu (1950); Cần tẩy sạch bệnh quan liêu (1951); Thực hành tiết kiệm chống tham ô, lãng phí (1952); Đạo đức cách mạng (1958)... Chỉ mấy tháng trước khi đi xa, trong dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, Người viết bài “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (đăng Báo Nhân Dân ngày 3/2/1969).
Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của những căn bệnh làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hệ quả của tình trạng cán bộ bị "nhiễm bệnh", các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân bị biến chất, pháp luật bị khinh nhờn, kỷ cương bị buông lỏng, đạo đức bị xuống cấp, dẫn đến nhân dân mất lòng tin vào Đảng, vào Chính phủ. Đây là nguy cơ làm cho Đảng mất dần tính cách mạng, tính trí tuệ, tính đạo đức, tính nhân dân ...
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu một luận điểm quan trọng: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Đây là lời cảnh tỉnh, có ý nghĩa sâu sắc đối với Đảng cộng sản, đối với mỗi cán bộ, đảng viên.
Chủ nghĩa cá nhân đặc biệt nguy hiểm và khó chống bởi đó là kẻ thù vô hình, diễn biến trong chính bản thân mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, kẻ thù của những người cách mạng. Người nhận định: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”. “Muốn đánh thắng kẻ địch bên ngoài, thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa cá nhân”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ không kém cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Bởi lẽ, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không lộ diện, nó len lỏi trong tư tưởng, suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân. Người so sánh: “Tư tưởng Cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng Cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ”.
Nếu chủ nghĩa cá nhân tồn tại, sẽ làm tha hóa, biến chất cán bộ, đảng viên, suy yếu Đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Cán bộ, đảng viên giữ cương vị càng cao, quyền lực càng lớn mà mang nặng chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng thì càng nguy hiểm. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính. Người khẳng định: "Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau".
Để “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, phương cách tốt nhất đối với mỗi cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là tự phê bình và phê bình thường xuyên, nghiêm túc, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết. "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng".
Khi nói đến việc chống chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh là phải tăng cường kỷ luật Đảng, dựa vào dân; tăng cường hiệu lực pháp chế. Chống chủ nghĩa cá nhân trước hết phải chống từ trong Đảng và trong bộ máy chính quyền. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò tự phê bình và phê bình của mỗi đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng, Đảng ta phải ra sức tăng cường giáo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên. Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng. Người cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người viết: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có đạo đức cách mạng thì nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Người khẳng định: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước". Người cho rằng, trước hết phải giáo dục bằng tấm gương của chính mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói để cảm hóa, giáo dục người khác theo phương châm “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Không chỉ đề cao tầm quan trọng việc nêu gương của bản thân, Người còn yêu cầu mỗi cá nhân phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm. Đồng thời, phải hoan nghênh người khác phê bình mình; việc gì cũng thiết thực, nói được, làm được. Người yêu cầu: “Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ” và “Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì vô ích”.
Trong đời sống hàng ngày, cái tốt và cái xấu, đạo đức và phi đạo đức luôn luôn đan xen. Chính vì vậy vừa phải xây dựng đạo đức mới, vừa phải chống những gì phi đạo đức. Muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích để xây. Hồ Chí Minh căn dặn toàn Đảng: "Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật".
Tu dưỡng đạo đức là công việc phải làm bền bỉ suốt đời. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: Mỗi con người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". "Nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là quyết tấm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất".
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần trách nhiệm với công việc; yêu thương con người; tinh thần quốc tế trong sáng. Những phẩm chất đó có mối quan hệ tác động qua lại biện chứng với nhau, thiếu một phẩm chất thì người cán bộ, đảng viên không thể làm tròn nhiệm vụ do Đảng và nhân dân giao phó.
“Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta.
Trải qua 39 năm đấu tranh oanh liệt, làm Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, nhân dân ta tin tưởng rằng: Đảng ta lãnh đạo rất sáng suốt đã đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hằng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta đã tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang.
Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác.
Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng như thế”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 15, tr. 546)
Cán bộ là then chốt của mọi công việc
Cán bộ và công tác cán bộ là một hệ thống quan điểm phong phú, toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong”.
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng, là ngọn nguồn của người cách mạng. Quan điểm này xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Đường Kách mệnh là cuốn sách bồi dưỡng cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam theo học thuyết Mác-Lênin. Mở đầu cuốn sách, khi nói về “Tư cách một người cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc nêu 14 điều mà người cán bộ cách mạng “tự mình phải”: cần, kiệm, hoà mà không tư, cả quyết sửa lỗi mình, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, ít lòng ham muốn về vật chất.
Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không.
Coi trọng đạo đức cách mạng của cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh những đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người nhắc lại cụm từ này ở nhiều bài viết, bài nói của mình. Tháng 10/1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: “Chí công vô tư, cần, kiệm, liêm, chính!".
Tháng 9/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi ở trang đầu quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Đây là điều Người luôn mong mỏi, tâm huyết và coi đó là một trong những nội dung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết liên tiếp bốn bài ký tên Lê Quyết Thắng đăng trên báo Cứu quốc (số ra các ngày 30/5, 31/5, 1/6 và 2/6/1949) giải thích rõ Thế nào là Cần? Thế nào là Kiệm? Thế nào là Liêm? Thế nào là Chính?.
Cần “là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”; “cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy, cũng làm được”, bởi “Cần chẳng những có nghĩa hẹp như: Tay siêng làm thì hàm siêng nhai” mà còn “có nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần”. “Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời… Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài”.
Kiệm “là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi” và không phải là bủn xỉn. Trong đó, Cần phải đi đôi với Kiệm “như hai chân của con người”; vì “Kiệm mà không Cần thì không tăng thêm, không phát triển”. Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi với tiết kiệm về thời giờ, bởi “của cải nếu hết, còn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được”. Vì thế, phải “tiết kiệm thời giờ của mình, lại phải tiết kiệm thời giờ của người”, đồng thời, “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm”. Muốn tiết kiệm tốt thì phải khéo tổ chức, vì “không biết tổ chức thì không biết tiết kiệm” và phải “kiên quyết không xa xỉ”.
Liêm “là trong sạch, không tham lam” và “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là Bất liêm”. Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm, cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần, vì “có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam”. “Tham lam sẽ dẫn đến Bất liêm, cho nên, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Và “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”, cho nên “cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân. Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Chính “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “Cần, Kiệm, Liêm, là gốc của Chính. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn”. “Làm việc Chính là người Thiện. Làm việc Tà là người Ác. Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), Chính là Thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác”.
Để là Chính, mỗi người, đối với mình, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”, vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”.
Đối với người, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác-Ái”.
Đối với việc, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm”.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính có mối quan hệ chặt chẽ với “chí công vô tư”. Người cán bộ, đảng viên trong nhận thức và hành động khi “chí công vô tư”, tận tâm vì dân, vì nước thì nhất định sẽ thực hiện được Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: những người “có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc cán bộ, đảng viên phải hết sức phục vụ nhân dân và nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra, phê bình cán bộ, đảng viên, các cơ quan Đảng và chính quyền. Chính quyền của dân, do dân, vì dân. “Quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. “Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm”; “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có vị trí quan trọng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng vừa chuyên” là điều kiện cơ bản bảo đảm cho tổ chức đảng và bộ máy Nhà nước hoạt động tốt, có hiệu quả và ít “bệnh tật”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải toàn diện, bao gồm các mặt không tách rời nhau: huấn luyện nghề nghiệp (chuyên môn), huấn luyện chính trị, huấn luyện văn hóa, huấn luyện lý luận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phương châm huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ có thể tóm lược như sau:
- Thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều
- Huấn luyện từ dưới lên trên
- Phải gắn lý luận với công tác thực tế
- Huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu
- Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng
- Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học
Đào tạo, huấn luyện luôn đi đôi với việc sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ. Muốn vậy “phải biết rõ cán bộ”, “phải cất nhắc cán bộ cho đúng”; “phải khéo dùng cán bộ”; “phải giúp cán bộ cho đúng”; “phải giữ gìn cán bộ”…
Để bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết những cách làm việc với đội ngũ cán bộ như sau:
- Chỉ đạo những phương hướng đường lối công tác cho cán bộ, để họ phát huy năng lực và tinh thần sáng tạo trong những công việc cụ thể.
- Nâng cao trình độ cho cán bộ bằng cách tạo điều kiện để họ học thêm lý luận và chuyên môn.
- Thường xuyên kiểm tra rút kinh nghiệm, sửa chữa những khuyết điểm, phát huy ưu điểm trong quá trình công tác.
- Khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục, cải tạo, giúp họ sửa chữa.
Giúp đỡ họ bảo đảm những điều kiện sinh hoạt, chăm sóc họ khi đau ốm. Tùy theo điều kiện có thể giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề gia đình.
Quan điểm nổi bật của Người về công tác đào tạo, sử dụng cán bộ là: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung”.
“Bệnh cá nhân chủ nghĩa đẻ ra bệnh kiêu ngạo.
Kiêu ngạo là: Khi công tác có ít nhiều thành tích, ít nhiều thắng lợi, thì lên mặt anh chị, lên mặt công thần. Rồi đối với việc học tập thì lười biếng, không ra sức nâng cao trình độ của mình. Trong công tác thì xem thường nhân dân, xa rời quần chúng. Ở trong Đảng thì không thực hiện chế độ dân chủ tập trung, không tuân theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo. Phớt kỷ luật và chính sách của Đảng và của Chính phủ. Khinh rẻ ý kiến của cấp dưới. Xem thường chỉ thị của cấp trên. Không muốn chịu kiểm tra, không muốn nghe phê bình. Thân với những kẻ xu nịnh tâng bốc mình. Xa tránh những người tính trực nói thẳng…
Kết quả của bệnh kiêu ngạo là: thoái bộ, xuống dốc, rồi đi đến bất mãn, hủ hóa.
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhân dân lao động, chứ không phải của anh hùng cá nhân. Công việc kháng chiến kiến quốc ngày càng nhiều, càng to, càng mới. Đại đa số chúng ta thì trình độ còn thấp, kinh nghiệm còn ít. Chúng ta phải cố gắng làm, cố gắng học, cố gắng tiến bộ mãi. Có như thế mới làm tròn nhiệm vụ mà nhân dân giao phó cho chúng ta.
Chúng ta phải tuyệt đối chống bệnh kiêu ngạo, phải luôn luôn khiêm tốn. Mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra. Trong đoàn thể thì phải giữ vững dân chủ tập trung, tập thể lãnh đạo, phải mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên trên. Có như vậy mới tiến bộ chung, tiến bộ mãi.
Thế là khiêm tốn. Khiêm tốn là một đạo đức mà mọi người cách mạng phải luôn luôn trau dồi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 8, tr. 507-508)
Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng
Mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng là mối quan hệ hai chiều biện chứng. Mối liên hệ này càng chặt chẽ, khăng khít càng bảo đảm tính nhân dân của Đảng và nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc này tạo nên ngọn nguồn sức mạnh của Đảng, quyết định sự tồn vong của Đảng. Nhân dân thể hiện quyền giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Tháng 10/1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tin vào dân chúng. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Trong giai đoạn cả nước tập trung sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng việc huy động nhân dân xây dựng, hoàn thiện bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đảng và Chính quyền. Người viết: "... Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên". Người chủ trương: “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết” để “Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Người yêu cầu tổ chức đảng, các đảng viên phải tự đến với dân và chú ý lắng nghe, tiếp thu những ý kiến của nhân dân, trên cơ sở đó, tiếp thu để trước tiên tự chỉnh đốn mình và sau đó góp sức chỉnh đốn, xây dựng Đảng.
Yêu cầu đặt ra trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống biểu hiện suy thoái, tham nhũng, tiêu cực đòi hỏi Đảng ta cần phải tập trung hơn nữa, kiên quyết hơn nữa, có kế hoạch và biện pháp mạnh mẽ hơn, theo đúng tinh thần đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước (ngày 24/7/1962): “Cuộc vận động này là một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là tệ nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
Chúng ta đã thấy rõ kẻ thù, Đảng đã định ra chiến lược, sách lược đúng đắn. Chúng ta phải đồng tâm nhất trí, mạnh bạo xung phong.
Để giành lấy thắng lợi, chúng ta phải nắm vững chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, phải dựa vào lực lượng của quần chúng, phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, phải thật sự mở rộng dân chủ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện của “dân là gốc” là tin ở dân, gần gũi với dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân, phải nhận thức rõ: “Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng”; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Người tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Nhận thức rõ vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ rằng sức mạnh của nhân dân chỉ được phát huy đầy đủ khi có một Đảng cách mạng lãnh đạo.
Người yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên “phải liên lạc mật thiết với dân chúng. Không được rời xa dân chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”.
Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì trở thành sức mạnh vô địch. Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức từ năm 1947 đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự:
“Chúng ta phải kiên quyết bỏ sạch lối quan liêu, lối chật hẹp, lối mệnh lệnh. Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây:
- Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.
- Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hóa nó thành cách chỉ đạo nhân dân... “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng”.
Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Đảng trở thành đại biểu cho lợi ích của giai cấp và của nhân dân. Đây là điểm xuất phát và cũng là nội dung, là mục tiêu phấn đấu của Đảng.
“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho:
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 6, tr. 232-234)