Tựa vào văn hóa để đi xa

“Du lịch văn hóa là một trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn và đặc sắc của Việt Nam, giúp ghi dấu ấn đậm nét trong lòng khách du lịch, đặc biệt với du khách quốc tế. Văn hóa là nguồn lực của du lịch. Du lịch cần khai thác các giá trị văn hóa làm nền tảng cho mục đích chuyến đi và tựa vào văn hóa để phát triển”.

Đó là đánh giá của TS Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch tại Diễn đàn “Phát triển du lịch văn hóa Việt Nam” - một điểm nhấn trong Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam (VITM Hanoi 2023). Cùng với ý kiến của ông, Nhân Dân hằng tháng xin trích lược một số đề xuất đầy tâm huyết mà các chuyên gia từng nhiều năm đau đáu cùng sự phát triển của loại hình du lịch giàu tiềm năng này chia sẻ trong khuôn khổ Diễn đàn.

PGS, TS Bùi Thanh Thủy, Trưởng khoa Du lịch,
Đại học Văn hóa Hà Nội:
Cần phát triển hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc, hấp dẫn, có giá trị gia tăng cao, bảo đảm tính bền vững và cạnh tranh vượt trội

Để phát triển hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa đạt được những yêu cầu kể trên, tôi nghĩ cần phải dựa trên một số cơ sở cụ thể. Đầu tiên là nhận diện, bảo tồn và tạo mới các nguồn tài nguyên du lịch văn hóa; xây dựng mô hình “một quần cư -
một sản phẩm”. Sau đó là phát huy tối đa các lợi thế tiềm năng về văn hóa, thúc đẩy cảm hứng cộng đồng bằng sáng kiến, sáng tạo trong xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch. Phát huy tính trải nghiệm, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các thị trường khách du lịch đối với từng kiểu loại sản phẩm; gia tăng tính riêng biệt, độc đáo, hấp dẫn và tính bền vững của sản phẩm du lịch văn hóa. Tiếp theo là phải xây dựng hệ thống không gian phát triển; phát triển sản phẩm theo từng loại hình di sản văn hóa, có tính ưu tiên; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm; phát huy tính đặc trưng của từng địa phương, các vùng du lịch, xác định các giá trị văn hóa đặc sắc, đặc trưng/đặc thù cho phát triển sản phẩm du lịch; ưu tiên phát triển các sản phẩm giúp định vị thương hiệu, có giá trị gia tăng cao. Phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa bảo đảm tính cạnh tranh khu vực và quốc tế. Cuối cùng là đẩy mạnh phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa mang tính bản sắc riêng biệt, độc đáo, thu hút thị trường ngách với khả năng chi tiêu cao.

Nếu đề xuất Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch văn hóa giai đoạn 2023-2030, tôi sẽ đưa ra những mục tiêu rất cụ thể. Phấn đấu tới dấu mốc 2025, chúng ta có thể định vị rõ nét các dòng sản phẩm du lịch văn hóa Việt Nam đặc trưng gắn với các địa phương, vùng du lịch. Ngoài ra, cần hình thành các dòng sản phẩm du lịch văn hóa mang tính đa dạng, hệ thống. Từng bước định vị hình ảnh các dòng sản phẩm du lịch văn hóa trở thành sản phẩm có thương hiệu, có sức cạnh tranh trong khu vực và thế giới.

Thêm nữa, chúng ta cần xây dựng quy hoạch và tập trung đầu tư phát triển sản phẩm du lịch văn hóa cho các đô thị trung tâm và vùng du lịch dân tộc thiểu số. Phát triển các sự kiện văn hóa, nghệ thuật, dịch vụ giải trí văn hóa, vật phẩm văn hóa, tạo sự đa dạng cho sản phẩm du lịch văn hóa. Hình thành các trung tâm trình diễn nghệ thuật đương đại, nghệ thuật thực địa. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chí đánh giá tài nguyên du lịch văn hóa, hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm du lịch văn hóa một cách toàn diện. Và cuối cùng là tiếp tục phát triển các dòng sản phẩm du lịch sinh thái nhân văn và du lịch lễ hội, làng nghề, du lịch trải nghiệm văn hóa vùng miền. Vào năm 2030, hy vọng chúng ta có thể phát triển đồng bộ các dòng sản phẩm du lịch văn hóa Việt Nam gắn với từng địa phương, vùng du lịch. Hoàn thành xây dựng các vùng không gian phát triển du lịch văn hóa và đầu tư cho các khu vực có giá trị văn hóa đặc biệt phát triển thành các khu du lịch quốc gia. Định vị được các dòng sản phẩm tạo thương hiệu quốc gia, quốc tế, sản phẩm du lịch văn hóa Việt Nam được ghi nhận trên thị trường khu vực và quốc tế.

Ông Vũ Văn Tuyên,
Tổng Giám đốc Công ty TNHH du lịch Travelogy Việt Nam:
Xúc tiến du lịch văn hóa trong và ngoài nước - cần một lộ trình bài bản

Bản sắc văn hóa của các vùng, miền, các dân tộc, các quốc gia chính là điều tạo nên sức hấp dẫn với khách du lịch đến từ vùng, miền, hay quốc gia khác. Hoạt động tham quan di sản văn hóa tại Việt Nam được khách du lịch quốc tế ưa thích thứ hai, chỉ sau du lịch nghỉ dưỡng. Trong hai năm liên tiếp (2019-2020), Việt Nam được tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới bình chọn là “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”.

Với tôi, sản phẩm du lịch văn hóa là loại sản phẩm trung tâm chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu sản phẩm du lịch. Những tiêu chí cần có của sản phẩm này bao gồm: mang đậm dấu ấn bản sắc (vùng, miền) và ở tầm cao nhất là bản sắc quốc gia; độc, lạ, hấp dẫn; có thể tiếp cận được; giá cả phù hợp. Để có thể xúc tiến loại hình du lịch văn hóa một cách có hiệu quả ở cả trong lẫn ngoài nước, một lộ trình được thiết kế và thực hiện bài bản là đặc biệt quan trọng.

Với thị trường nội địa, chúng ta cần quảng bá, giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam, di sản văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, công trình lao động sáng tạo của con người, bản sắc văn hóa dân tộc nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Tiếp đó, cần xây dựng, phát triển thương hiệu du lịch của quốc gia, vùng, địa phương hay của từng doanh nghiệp; nghiên cứu thị trường du lịch, xây dựng, quảng bá sản phẩm du lịch phù hợp với thị hiếu của du khách. Tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, góp phần bảo đảm môi trường du lịch an ninh, an toàn, lành mạnh, văn minh, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc. Ngoài ra, việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch cũng là một ý tưởng cần thiết. Cuối cùng là vận động, tìm kiếm cơ hội, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch văn hóa.

Để du lịch văn hóa có thể vươn ra ngoài biên giới, cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia có vai trò chủ đạo trong hoạt động xúc tiến quốc gia và hướng dẫn, hỗ trợ xúc tiến quảng bá du lịch cấp vùng, địa phương và cấp doanh nghiệp. Chiến lược, chương trình, chiến dịch xúc tiến quảng bá phải được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết quả các nghiên cứu thị trường và gắn chặt với chiến lược sản phẩm-thị trường và chiến lược phát triển thương hiệu. Nội dung xúc tiến quảng bá tập trung vào điểm đến, sản phẩm và thương hiệu du lịch theo từng thị trường mục tiêu. Thêm vào đó, kế hoạch xúc tiến quảng bá du lịch quốc gia có thể lập cho giai đoạn dài hạn 5 năm và kế hoạch cụ thể cho từng năm; việc tổ chức thực hiện có đánh giá, kế thừa và duy trì liên tục theo thị trường. Thông tin xúc tiến quảng bá phải bảo đảm tin cậy, thống nhất, tạo dựng được hình ảnh quốc gia trên diện rộng và hình ảnh điểm đến của vùng, địa phương, doanh nghiệp và từng sản phẩm. Nên nỗ lực khai thác tối đa các kênh thông tin thông qua cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, thương vụ, trung tâm văn hóa Việt Nam, các hãng hàng không Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam và hệ thống nhà hàng ẩm thực Việt Nam ở nước ngoài; thiết lập đại diện du lịch Việt Nam tại một số thị trường trọng điểm. Gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao, văn hóa. Đầu tư ứng dụng công nghệ cao cho hoạt động xúc tiến quảng bá; khai thác tối ưu công nghệ thông tin, truyền thông và phối hợp tốt với các đối tác quốc tế trong xúc tiến quảng bá du lịch nói chung, du lịch văn hóa nói riêng.

Vở diễn Tinh hoa Bắc Bộ.

Vở diễn Tinh hoa Bắc Bộ.

TS Nguyễn Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, Tổng cục Du lịch Việt Nam:
Có thể học hỏi nhiều bài học quý giá từ kinh nghiệm phát triển du lịch văn hóa của bạn bè quốc tế

“Ảnh hưởng của du lịch văn hóa” là cuốn sách được Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) xuất bản năm 2009. Xin được chia sẻ một số kinh nghiệm quý giá, từ kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều nét tương đồng về văn hóa với Việt Nam từng được đúc kết trong cuốn này. Thí dụ, ngành du lịch của Nhật Bản thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu lớn một phần là do Chính phủ rất coi trọng phát triển du lịch văn hóa nhằm tạo nên thương hiệu, sức hút lôi cuốn khách du lịch. Thí dụ, họ tập trung xây dựng một số khu du lịch trọng điểm gắn với di sản văn hóa, đặc biệt là những di sản thế giới. Ngoài lựa chọn một số nhân vật như Pikachu, mèo Hello Kitty làm đại sứ văn hóa và du lịch, họ còn ban hành nhiều chính sách, kế hoạch, dự án hiệu quả để xây dựng thương hiệu quốc gia sửa đổi Đạo luật Bảo vệ tài sản văn hóa (năm 2004), ban hành Luật Phát triển các điểm đến du lịch (năm 2008); gia tăng ngân sách dành cho phát triển văn hóa và du lịch… Với Hàn Quốc, sản phẩm “Chương trình lưu trú trải nghiệm cuộc sống ở chùa” (Temple Stay) là một kinh nghiệm hay mà chúng ta có thể tham khảo. Được tổ chức lần đầu tiên năm 2002, khi quốc gia này đăng cai tổ chức World Cup với mục đích huy động đủ cơ sở lưu trú vừa giới thiệu văn hóa truyền thống của Hàn Quốc cho người nước ngoài. Khởi đầu với khoảng 36 nghìn người tham gia, trong đó có khoảng 6 nghìn khách quốc tế, sau 20 năm, Temple Stay đã trở thành một thương hiệu mạnh, với hệ thống hơn 130 cơ sở, 6 triệu người tham gia (trong đó có hơn 650 nghìn du khách đến từ 205 quốc gia) và đạt được nhiều giải thưởng quốc tế danh giá.

Từ đó, để du lịch văn hóa Việt Nam có thể đi xa, bảy bí quyết mà theo tôi có thể áp dụng bao gồm:

Một là: Cần lựa chọn hướng đi đúng đắn trong phát triển du lịch văn hóa sao cho phù hợp để có hiệu quả nhất.

Hai là: Định hình và xây dựng được thương hiệu của mỗi địa phương, của quốc gia dựa trên các nền tảng văn hóa vốn có nhằm thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư, của khách du lịch trong và ngoài nước từ đó thu lại được thành quả và lợi ích về kinh tế-văn hóa-xã hội.

Ba là: Tầm quan trọng của Chính phủ và hiệu quả của các chính sách đối với phát triển du lịch. Du lịch và văn hóa chỉ có thể phát triển bền vững khi có được những chính sách, chiến lược, kế hoạch, chương trình dẫn dắt phù hợp.

Bốn là: Thúc đẩy hoạt động quảng bá, gắn văn hóa với phát triển du lịch thông qua các hoạt động xúc tiến quảng bá: lựa chọn nhân vật/biểu tượng trở thành đại sứ văn hóa-du lịch; đẩy mạnh quảng bá tại các hội chợ, triển lãm quốc tế cũng như trong nước; xây dựng các ấn phẩm quảng bá ấn tượng…

Năm là: Thiết kế và xây dựng được các sản phẩm du lịch mang tính sáng tạo, độc đáo và đa dạng dựa trên các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của mỗi địa phương, mỗi vùng miền.

Sáu là: Chú trọng đầu tư phát triển và cải tạo kết cấu hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, đặc biệt ở những địa phương giàu tài nguyên du lịch văn hóa nhưng điều kiện kinh tế-xã hội còn chậm phát triển.

Bảy là: Phát huy vai trò của cộng đồng và văn hóa cộng đồng trong phát triển du lịch. Mỗi người dân đều phải hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch. Để làm được điều đó, chính quyền và doanh nghiệp cần phải bảo đảm hài hòa lợi ích có được từ các hoạt động phát triển du lịch đối với cộng đồng. Trao quyền cho cộng đồng địa phương trong phát triển du lịch là hướng đi đúng đắn.

Tổ chức thực hiện :
Ban Nhân Dân hằng tháng
Nội dung :
Hồ Cúc Phương, Mai Lữ, Đàm Bảo Ngọc, Trương Thu Hiền
Trình bày mỹ thuật :
Duy Thanh
Ảnh :
Huyền Nga, Sun Group, Báo quân đội nhân dân, Sở du lịch Ninh Bình, nguồn internet