VẬN DỤNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ ĐỘC ĐÁO



Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành, giữ nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân tộc Việt Nam đã tích lũy được nhiều tri thức và kinh nghiệm quân sự phong phú, hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự rất độc đáo, sáng tạo, mang đậm dấu ấn văn hóa, tư chất và trí tuệ Việt Nam.
1. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều ở cả tầm chiến lược, chiến dịch và chiến thuật
Do đặc điểm luôn phải chống lại những thế lực xâm lược là những nước lớn có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn mạnh, có số quân trực tiếp tham chiến đông hơn ta gấp nhiều lần, nên nghệ thuật quân sự Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy đoản binh thắng trường trận. Quy luật phát triển bình thường là mạnh được yếu thua. Thực tế đó đòi hỏi nghệ thuật quân sự Việt Nam phải giải quyết hàng loạt vấn đề ở cả tầm chiến lược, chiến dịch và chiến thuật để có thể lấy ít địch nhiều, đồng thời từng bước chuyển hóa ít thành nhiều, yếu thành mạnh, tạo ưu thế áp đảo để giành thắng lợi cuối cùng.
Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, trước hết phải biết mình, biết người. Biết mình, không có nghĩa là chỉ biết những điểm mạnh, mà còn phải biết cả những điểm yếu, những mặt hạn chế, để trong quá trình chiến tranh, chỗ yếu và những điểm hạn chế sẽ dần được khắc phục, những điểm mạnh của ta sẽ không ngừng được phát huy. Biết người là kịp thời phát hiện những mâu thuẫn không thể khắc phục được của địch để triệt để khai thác, khoét sâu những hạn chế, chỗ yếu cốt tử của đối phương, đồng thời cũng thấy được những điểm mạnh, sở trường của địch để tránh hoặc hạn chế sức mạnh của chúng. Trong hoàn cảnh phải lấy ít địch nhiều, biết mình, biết người là cơ sở quan trọng để xác định phương thức tiến hành chiến tranh, cách bày binh bố trận, lựa chọn phương pháp tác chiến, tổ chức, sử dụng lực lượng sao cho hiệu quả nhất, “sức dùng một nửa mà công lập gấp đôi”. Biết mình, biết người một cách chính xác thường có ý nghĩa quyết định thành bại của cuộc chiến. Nguyễn Trãi đúc kết: “Tri bỉ tri kỷ, năng nhược năng cường” (nghĩa là biết người, biết mình, có thể chuyển yếu thành mạnh).
Hình ảnh chiến sỹ cảm tử quân, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Hà Nội ngày 23/12/1946 mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, mà ở đó mỗi người dân đều là chiến sỹ và sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Hình ảnh chiến sỹ cảm tử quân, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Hà Nội ngày 23/12/1946 mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, mà ở đó mỗi người dân đều là chiến sỹ và sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.
Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều phải biết dựa vào lòng yêu nước của nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, động viên sức mạnh vật chất, tinh thần và trí tuệ của toàn dân tộc đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt; đánh bằng mọi thứ vũ khí, mọi hình thức, mọi quy mô, ở mọi lúc mọi nơi; đồng thời, phải biết tổ chức thế trận toàn dân sao cho thích hợp nhằm phát huy sức mạnh vô địch toàn dân đánh giặc. Trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dân tộc ta có kinh nghiệm tổ chức lực lượng rất độc đáo, sáng tạo. Bên cạnh lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, còn có đông đảo nhân dân tham gia chiến đấu với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trên cơ sở đó, dân tộc ta đã tạo nên một thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, khiến cho địch không chỉ phải đối diện với lực lượng vũ trang mà còn phải đối diện với lực lượng toàn dân. Bị sa vào thế trận đó các đạo quân xâm lược đông mà hóa ít, mạnh lúc đầu trở thành yếu về sau.
Để lấy nhỏ thắng lớn thường phải đánh lâu dài, biết giành thắng lợi từng bước. Thời gian là điều kiện cần thiết để tạo lực, tạo thế, tạo thời chuyển yếu thành mạnh, giành thắng lợi quyết định. Do tương quan lực lượng ban đầu quá chênh lệch, trong nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc, ông cha ta chủ trương đánh lâu dài để xây dựng thực lực, từng bước chuyển hóa lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, từng bước tạo lực, lập thế, tranh thời mới đi đến thành công. Thậm chí trong một số cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong điều kiện có chính quyền, có quân đội, nhưng trước những kẻ thù xâm lược lớn mạnh, dân tộc ta cũng phải thực hiện đánh lâu dài, vừa xây dựng, vừa chiến đấu để từng bước chuyển hóa thế trận và lực lượng mới có thể giành được thắng lợi cuối cùng. Trong hai cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đưa ra chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh. Ta chủ trương phải thực hiện đánh lâu dài, đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, đánh bại từng chiến lược chiến tranh của địch. Trên cơ sở đó giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Nhưng đánh lâu dài không phải là vô thời hạn, mà phải tích cực tạo thế, tạo lực, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi càng sớm càng tốt. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cũng có lúc trên cơ sở so sánh lực lượng không quá chênh lệch, ông cha ta thực hành tiến công địch ngay trên tuyến đầu Tổ quốc, nhanh chóng kết thúc chiến tranh (Ngô Quyền chống quân Nam Hán, Lê Hoàn chống quân Tống), hoặc khi địch đã tiến sâu vào nội địa nhưng chưa kịp triển khai lực lượng, bộc lộ sơ hở, ta điều quân từ xa đến, tiến công thần tốc, táo bạo, bất ngờ khiến quân địch không kịp trở tay, giành thắng lợi nhanh chóng (Quang Trung đại phá quân Thanh).
Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ. Trong ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.
Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ. Trong ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.
Lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều phải biết tránh sức mạnh ban đầu của giặc, đề cao mưu trí, chỉ chấp nhận giao chiến trong thế có lợi với cách đánh có lợi. Các thế lực xâm lược thường huy động lực lượng lớn, tiến công ồ ạt bằng nhiều đường thủy bộ, âm mưu đánh nhanh thắng nhanh. Để đối phó, ông cha ta có kinh nghiệm hết sức tránh sức mạnh ban đầu của địch, không mạo hiểm “dốc túi”, dùng lực lượng chủ lực đối đầu ngay với cách đánh trường trận của địch. Khi chúng nôn nóng muốn đánh thì ta không đánh, khi chúng hoang mang, mệt mỏi hoặc mất cảnh giác thì nhất tề tiến công. Điều đó đã vô hiệu hóa chiến lược của địch, làm cho đối phương không thực hiện được mục tiêu ban đầu, không phát huy được sở trường mà buộc phải kéo dài chiến tranh, đánh theo cách đánh đoản binh của ta, bị phân tán, bị dàn mỏng lực lượng, khiến quân địch bị sa lầy, mệt mỏi, hao binh tổn tướng, cạn nguồn lương thảo, đó là khi tạo điều kiện và thời cơ để ta chuyển sang cách đánh trường trận, thực hiện những đòn phản công, tiến công chiến lược, đánh bại chiến tranh xâm lược của địch. “Lấy đoản binh chế trường trận”, “dĩ dật đãi lao” là nghệ thuật đánh giặc độc đáo của dân tộc ta. Thế kỷ XIII, Trần Quốc Tuấn đã đúc kết: “Dùng đoản [binh] chế trường [trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự.
Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế”1. Thời Tây Sơn, để tránh quyết chiến bất lợi, ta chủ động rút lui chiến lược, “chịu nhịn để tránh sức mạnh ban đầu của chúng”, “cho giặc ngủ trọ một đêm”, sau đó nhân sơ hở của địch, tập trung lực lượng, chiến thắng địch trong một trận thần tốc. Đúng như Ngô Thì Nhậm đã tổng kết: “Tướng giỏi đời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế thay đổi mà bày chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước, đừng có đem nước sau làm trước, đó mới là tay cao cờ”2.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, để hạn chế mặt mạnh của địch, đồng thời phát huy cách đánh của ta, quân và dân ta tìm mọi biện pháp buộc địch phải phân tán lực lượng trên một không gian rộng, trong một thời gian dài, không cho chúng phát huy lối đánh sở trường (đánh tập trung lực lượng, dàn thành hai tuyến đối địch), mà bắt chúng phải đánh theo lối đánh gần, đánh hiểm, đánh không phân tuyến của ta, khiến chúng luôn trong tình trạng bị động đối phó. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tổng kết: “Điểm nổi bật trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của ta là biết phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của ta, không cho địch phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của chúng, lấy cái mạnh của ta đánh thẳng vào chỗ yếu của địch, liên tiếp phá tan mọi âm mưu chiến lược của chúng, tiến tới đánh thắng chúng hoàn toàn”1. Trong điều kiện lấy ít địch nhiều, sẽ là sai lầm nếu lấy lực lượng quân đội với số lượng có hạn để dàn trận, đối chiến ngay với đội quân xâm lược đông hơn gấp nhiều lần. Đó là bài học của Hai Bà Trưng chống quân Đông Hán (thế kỷ I), Lý Bí chống quân Lương (thế kỷ VI) và nhà Hồ chống quân Minh (thế kỷ XV). Do không biết địch, biết ta, nên ngay từ đầu đã đưa quân đội dàn trận, đối địch với quân thù vốn có sự áp đảo về số lượng nên đã nhanh chóng bị tổn hao lực lượng, bị động và dẫn đến thất bại.
Thực hiện lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh phải coi trọng kết hợp chặt chẽ “lực - thế - thời - mưu”. Trong quân sự, biết kết hợp chặt chẽ các yếu tố lực, thế, thời, mưu sẽ tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn. Do phải lấy ít địch nhiều, trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng, nghệ thuật dụng binh của dân tộc ta luôn quán triệt nguyên tắc dùng lực phải dựa vào thế có lợi để đạt hiệu quả cao, để biến lực nhỏ hóa lớn, yếu hóa mạnh. Bởi ở thế có lợi thì lực dù nhỏ cũng hóa thành mạnh và ngược lại ở thế bất lợi thì lực mạnh cũng hóa thành yếu; đồng thời phải đặt thế, lực vào đúng thời cơ có lợi nhất để “sức dùng một nửa mà công được gấp đôi”.
21.000 xe đạp thồ, 261.500 dân công cùng các loại ôtô, tàu, thuyền, lừa, ngựa… ngày đêm vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược lên mặt trận Điện Biên Phủ. Sự đóng góp to lớn của lực lượng dân công, đảm bảo hậu cần cho chiến dịch là một trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng.
21.000 xe đạp thồ, 261.500 dân công cùng các loại ôtô, tàu, thuyền, lừa, ngựa… ngày đêm vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược lên mặt trận Điện Biên Phủ. Sự đóng góp to lớn của lực lượng dân công, đảm bảo hậu cần cho chiến dịch là một trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng.
Khái quát yêu cầu đó, Nguyễn Trãi đã viết: “Người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời, thế mà thôi. Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại thành nguy”1. Đặc biệt, phải biết dùng mưu, bởi có mưu mới vận dụng và phát huy được thế và thời. Muốn có mưu sâu, kế hiểm phải đào sâu suy nghĩ, biết tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn, biết triệt để khai thác các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để đánh địch. Các nhà quân sự đã đúc kết: “Trải nhiều biến cố thì mưu kế sâu, tính việc xa thì thành công lạ” (Nguyễn Trãi); “Nếu sự suy tính của ta mà không hơn người thì dù quân có nhiều cũng không ích gì cho sự thắng vậy” (Trần Quốc Tuấn: Binh thư yếu lược). Kết hợp chặt chẽ “lực - thế - thời - mưu” là quy luật giành chiến thắng của dân tộc ta. Lấy ít địch nhiều, nhỏ đánh lớn, đồng thời biết tập trung lực lượng khi cần thiết, luôn đánh địch trên thế mạnh. Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của ông cha ta, nhưng khi có điều kiện, nhất là sau khi tạo được thế và lực có lợi, phải biết tập trung binh lực nhiều hơn địch để tiêu diệt lớn, đánh bại ý chí xâm lược của địch. Tập trung binh lực ngang hoặc nhiều hơn địch, còn phải biết tạo thành thế mạnh ở những điểm quyết định, nhất là phải kết hợp nghi binh, lừa địch, làm chúng bất ngờ, không phòng bị, sẽ tạo hiệu quả lớn. Nguyễn Trãi nhấn mạnh, tạo được tình huống như thế, “binh đánh vào đâu như lấy đá gieo vào trứng”, “phàm lấy sức nặng nghìn cân đè lên trứng chim, thì chưa hề có trứng nào không vỡ nát”. Thời hiện đại, các chiến dịch Biên giới, Điện Biên Phủ; các chiến dịch trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đặc biệt Chiến dịch Hồ Chí Minh là những thành công điển hình về cách tập trung binh lực, tạo ưu thế mạnh hơn địch trong những thời điểm quan trọng, trong những trận then chốt, trận quyết chiến chiến lược.
Lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn còn phải biết mở đầu và kết thúc chiến tranh sao cho có lợi nhất. Dân tộc ta luôn khát khao được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Mỗi khi kẻ thù xâm lược buộc dân tộc ta phải cầm vũ khí đứng lên chiến đấu để bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc, thì ông cha ta luôn biết khởi đầu chiến tranh một cách có lợi nhất. Để khởi đầu chiến tranh, có khi ông cha ta phải chủ động đánh trước, phá kế hoạch tiến công của địch. Cũng có khi để vượt qua thời kỳ khó khăn ban đầu, tránh thế hung hăng của địch, ông cha ta chủ động rút lui chiến lược. Kế thừa truyền thống của ông cha, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn quốc khi khả năng hòa bình không còn nữa, khi lòng dân đã quyết đứng lên kháng chiến, do đó có sức lôi cuốn toàn dân tộc và có sức thuyết phục trên trường quốc tế mạnh mẽ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã mở đầu cuộc kháng chiến bằng cuộc “Đồng khởi” độc đáo trên khắp vùng nông thôn rộng lớn, đẩy địch vào thế bị động, thất bại cả về chính trị và quân sự, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Lực lượng pháo cao xạ của ta đã anh dũng chiến đấu và lập công xuất sắc, không chỉ bảo vệ bầu trời, yểm hộ bộ binh chiến đấu, mà còn góp phần chặn đứng việc chi viện bằng đường hàng không cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ.
Lực lượng pháo cao xạ của ta đã anh dũng chiến đấu và lập công xuất sắc, không chỉ bảo vệ bầu trời, yểm hộ bộ binh chiến đấu, mà còn góp phần chặn đứng việc chi viện bằng đường hàng không cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ.
Và đã trở thành quy luật, trên cơ sở giành được những thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên chiến trường, dân tộc ta biết cách dùng những biện pháp chính trị, ngoại giao mềm mỏng, khôn khéo để kết thúc chiến tranh. Tư tưởng kết thúc chiến tranh mang đậm tính đại nghĩa, tính nhân văn đó được Nguyễn Trãi đúc kết: “Nghĩ vì kế lâu dài của nước nhà. Tha kẻ hàng mười vạn binh sĩ. Sửa hòa hiếu cho hai nước. Tắt muôn đời chiến tranh”1. Quang Trung - Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh đã đặt ngay mối bang giao, hòa hiếu với nhà Thanh, thậm chí còn sang triều cống, cốt sao giữ được an ninh cho đất nước, không để nước lớn “thẹn mà lo báo thù”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ta đánh bại cố gắng cuối cùng cao nhất của chúng bằng trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, đánh thẳng vào nơi mạnh nhất của quân đội viễn chinh Pháp, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ kết thúc thắng lợi bằng một loạt các chiến dịch tiến công lớn kế tiếp nhau của các binh đoàn chủ lực đánh thẳng vào các đô thị lớn kết hợp với nổi dậy của quần chúng ở nông thôn đồng bằng, rừng núi và đô thị, giành toàn thắng. Tại các thời điểm ta chọn kết thúc chiến tranh, thế và lực cách mạng đều mạnh, có đủ điều kiện để quyết định kết thúc chiến tranh.
Có thể khẳng định, sức mạnh của chiến tranh là sức mạnh tổng hợp, sức mạnh có chuyển hóa và phát triển chứ không đơn thuần là sự so sánh tương quan lực lượng và phương tiện của mỗi bên tham chiến ban đầu. Với nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc, nghệ thuật “khiển địch, điều địch” theo ý đồ chiến lược của ta; biết kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các yếu tố lực, thế, thời, mưu; biết mở đầu và kết thúc chiến tranh; luôn coi trọng nhân tố chính trị - tinh thần, mà cái ít của ta thành nhiều, cái “yếu” trở thành “mạnh” và ngày càng mạnh hơn để đánh thắng địch trên thế mạnh. Điều đó hoàn toàn đúng với quy luật của chiến tranh: mạnh được yếu thua. Bởi vì cái “nhỏ”, cái “lớn” giữa ta và địch đã vận động, biến đổi. Nhờ dựa trên phương pháp so sánh vừa có căn cứ thực tiễn, vừa dự báo xu hướng vận động, phát triển đã giúp dân tộc ta tự tin, từng bước chuyển “yếu thành mạnh”, “ít thành nhiều”, đánh bại mọi kẻ thù, dù đó là những kẻ xâm lược có quân đông, vũ khí tối tân, trang bị hiện đại.

2. Luôn quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công đi đôi với giành và giữ quyền chủ động, chọn hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chiến lược đúng đắn
Thực tiễn chỉ rõ, trong cuộc chiến tranh tự vệ, muốn giành, giữ nền độc lập dân tộc, nhất thiết phải thực hiện chiến lược tiến công. Chỉ có tiến công mới đánh bại được ý chí xâm lược của kẻ thù, mới tiêu hao, tiêu diệt được lực lượng của địch, mới đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi. Tích cực chủ động tiến công là yếu tố cơ bản có tính quyết định thắng lợi trong chiến tranh giữ nước của dân tộc ta. Có tư tưởng chủ động tiến công mới có hành động tiến công. Trong chỉ đạo tác chiến, chỉ có tiến công kiên quyết mới phát huy được triệt để sức mạnh của chiến tranh toàn dân, có tiến công mới giành được quyền chủ động, có nắm được quyền chủ động mới bảo đảm phát triển không ngừng thế tiến công. Tổng kết nghệ thuật quân sự dân tộc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Nền nghệ thuật quân sự Việt Nam chủ yếu là nghệ thuật tiến công, nghệ thuật giành và giữ quyền chủ động trong mọi tình huống cũng như trong suốt cuộc chiến tranh. Khi vận dụng các hình thức tác chiến, nghệ thuật quân sự của ta chủ trương có tiến công, có phòng ngự, nhưng lấy tiến công là chủ yếu...”1. Tích cực tiến công không có nghĩa là tiến công bằng mọi giá, hành động phiêu lưu, liều lĩnh, mạo hiểm, mà phải có phương thức tiến công phù hợp, linh hoạt với từng hoàn cảnh, từng thời điểm, giai đoạn, gắn với từng địa bàn và từng đối tượng cụ thể. Trong quá trình chỉ đạo chiến tranh, đi đôi với xây dựng tinh thần tiến công, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân tộc, ông cha ta luôn dựa trên cơ sở “biết mình, biết người” một cách chính xác, nắm vững cả những điểm mạnh và điểm hạn chế, sở trường và sở đoản của cả ta và đối phương để từ đó lựa chọn phương pháp tiến công phù hợp, đạt hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở so sánh lực lượng, trong chỉ đạo chiến lược, cũng có khi ông cha ta thực hành tiến công liên tục từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ, làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng trên chiến trường, thay đổi cục diện của chiến tranh để đi đến thắng lợi; cũng có khi thực hiện đòn tiến công phủ đầu sang đất đối phương làm giảm nhuệ khí và sức tiến công của địch rồi chủ động rút quân, lập phòng tuyến chặn giặc, khi thời cơ đến thì tổ chức phản công chiến lược đuổi chúng ra khỏi bờ cõi; cũng có khi ông cha ta thực hiện rút lui chiến lược, đồng thời vẫn tiến hành tiến công tiêu hao, tiêu diệt địch, khi tinh thần và sức chiến đấu của địch bị suy giảm, thì tập trung toàn lực thực hành đòn phản công chiến lược, truy kích diệt địch, giành thắng lợi quyết định; cũng có khi ta thực hiện tiến công bằng lối đánh du kích ngày ẩn đêm hiện, đánh lâu dài, tiêu hao dần lực lượng địch mà giành thắng lợi; cũng có khi thực hiện tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ bằng nhiều hướng, nhiều mũi, nhanh chóng tiêu diệt địch... Cùng với tiến công quân sự, ông cha ta còn tiến công địch bằng chính trị, binh vận, ngoại giao và kết hợp chặt chẽ các mặt trận đó nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu năm 1947.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu năm 1947.
Tư tưởng chiến lược là tiến công, nhưng trong quá trình chỉ đạo tác chiến, có lúc trên cơ sở so sánh lực lượng không cho phép tiến công trực tiếp, ông cha ta thực hiện kết hợp phòng ngự với tiến công. Nhưng phòng ngự thường chỉ được xem là khâu trung gian, bước đệm cần thiết để tạo thế, tạo lực rồi tiến lên tiến công, phản công chiến lược giành thắng lợi quyết định. Trong một số trường hợp, dựa trên cơ sở so sánh lực lượng quá chênh lệch, dân tộc ta cũng thực hành rút lui chiến lược để chuyển hóa lực lượng và thế trận, cuối cùng là phản công chiến lược giành thắng lợi. Trong lịch sử dân tộc, triều đại nào không xuất phát từ tư tưởng tích cực, chủ động tiến công chiến lược, không linh hoạt trong chỉ đạo tác chiến mà chỉ đơn thuần thực hiện phòng ngự một cách bị động đều bị thất bại cay đắng. Đó là bài học của An Dương Vương chống Triệu Đà, nhà Hồ chống quân Minh và nhà Nguyễn chống thực dân Pháp.
Tiếp thu kinh nghiệm của ông cha, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định chiến lược cách mạng Việt Nam là chiến lược tiến công. Với sức mạnh của cả nước đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta luôn quán triệt tư tưởng “kiên quyết không ngừng thế tiến công”, luôn giành, giữ thế chủ động tiến công địch từ nhỏ đến lớn, từ cục bộ đến toàn bộ; tiến công liên tục, rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng; tiến công bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận); thực hiện tiêu diệt để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, làm cho địch bị động, lúng túng đối phó, dẫn đến sai lầm về chiến lược, sa lầy về chiến dịch, chiến thuật và thất bại. Các hình thức, phương thức đó được vận dụng hết sức linh hoạt, tùy thuộc yêu cầu đấu tranh cách mạng của từng thời điểm, giai đoạn, gắn với từng địa bàn cụ thể và từng đối tượng cụ thể. Cũng chính xuất phát từ chiến lược tiến công và dựa trên thế trận tiến công rộng khắp của chiến tranh nhân dân, trong 30 năm chiến tranh cách mạng, các chiến dịch của ta chủ yếu là chiến dịch tiến công, phản công. Có một số chiến dịch phòng ngự, nhưng tư tưởng chỉ đạo vẫn là tư tưởng chiến lược tiến công, phòng ngự để chuyển sang phản công.
Đảng ta xác định tư tưởng chiến lược của chiến tranh cách mạng Việt Nam là tư tưởng tiến công. Còn hình thức tác chiến cụ thể thì có tiến công, phòng ngự, kể cả phòng ngự chiến thuật, phòng ngự chiến dịch. Đó là quy luật. Nhưng tác chiến phòng ngự ở quy mô nào cũng phải được thực hiện “phòng ngự thế công”, nghĩa là phải luôn chủ động, tích cực, kết hợp chặt chẽ giữa hành động chiến đấu phòng ngự và hành động chiến đấu tiến công. Mục đích cao nhất của phòng ngự là ngăn chặn, kìm giữ địch tiến công, hạn chế sức mạnh ban đầu của địch, tiêu hao phần lớn hoặc một phần lực lượng, nhằm tạo thế và thời cơ cho ta tổ chức phản công, tiến công. Nếu ta chỉ thực hiện phòng ngự đơn thuần sẽ không tránh khỏi thất bại. Cũng có lúc, có nơi, do nhận thức không đúng về tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng và sự thiếu hiểu biết về tác chiến phòng ngự, nên ta tổ chức phòng ngự thụ động, sử dụng lực lượng, tổ chức đội hình chiến đấu không phù hợp, thụ động ngồi chờ địch đến, cố thủ một chỗ đối đầu với địch, không kịp thời chuyển bộ đội vào tác chiến phòng ngự, dẫn đến bị hao tổn về lực lượng. Thậm chí, một số cán bộ cho rằng trong chiến tranh cách mạng chỉ có tiến công, phủ nhận phòng ngự, coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy, trong một số trận đánh, bộ đội bị thương vong nhiều là điều khó tránh khỏi.
Như vậy, tư tưởng chiến lược tiến công được quán triệt trong tất cả các loại hình chiến dịch tiến công, phản công, phòng ngự và những hoạt động quân sự khác. Nhưng dù tiến công, phòng ngự ở quy mô nào, hình thức nào thì dân tộc ta cũng luôn quán triệt nguyên tắc chủ động tạo thời cơ thuận lợi để đánh chắc thắng, hết sức tiết kiệm lực lượng; phải luôn quán triệt tư tưởng “tiến công phòng ngự không sơ hở”, tiến công, phòng ngự đều phải đánh chắc thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không cố đánh, tuyệt đối không phiêu lưu, mạo hiểm. Đảng đã chỉ rõ: “Ta không chủ quan, khinh địch, không nóng vội, không mạo hiểm. Đánh ăn chắc, tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan, mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn”1. Thực hiện chiến lược tiến công, kinh nghiệm của dân tộc ta là luôn phải giành và giữ quyền chủ động đánh địch, chủ động tìm địch mà đánh, chủ động nhử địch vào nơi “tử địa” để tiêu diệt. Tư tưởng tiến công được thể hiện cao nhất ở việc giành và giữ quyền chủ động trước và trong suốt quá trình chiến tranh, trong từng trận chiến đấu, từng chiến dịch. Với quan điểm phải “chế người chứ không để người chế mình”, ông cha ta kiên quyết không để địch nắm quyền chủ động mà luôn chủ động điều địch theo ý đồ chiến lược của ta, buộc chúng phải đánh theo cách đánh sở trường của ta, khiến cho địch rơi vào tình trạng bị động đối phó cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Ngô Quyền chủ động bày sẵn thế trận mai phục ở cửa sông Bạch Đằng để diệt địch; Lý Thường Kiệt thực hiện chiến lược “tiên phát chế nhân”, chủ động đánh trước để phá kế hoạch tiến công của giặc; Trần Quốc Tuấn chủ động điều quân Mông - Nguyên rút lui theo hướng đã chuẩn bị trận địa để tiêu diệt; Nguyễn Huệ chủ động dụ quân Xiêm vào trận địa mai phục ở Rạch Gầm - Xoài Mút để diệt giặc... là những điển hình về tính tích cực, chủ động tiến công địch của dân tộc ta.
Các chiến sĩ pháo binh của ta đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ với hai bàn tay đã kéo những khẩu pháo nặng hàng tấn vào trận địa.
Các chiến sĩ pháo binh của ta đã dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ với hai bàn tay đã kéo những khẩu pháo nặng hàng tấn vào trận địa.
Từ nhận thức có nắm được quyền chủ động mới bảo đảm không ngừng phát triển thế tiến công, trong khởi nghĩa vũ trang, Đảng đã chủ động, tích cực xây dựng, phát triển lực lượng, không ngừng mở rộng căn cứ địa, đẩy nhanh sự chín muồi của tình thế cách mạng, chủ động bám sát tình hình, nắm bắt thời cơ, phát động quần chúng nổi dậy đúng lúc, kịp thời. Trong chiến tranh giữ nước, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”1, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chủ động chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, giành quyền chủ động tiến công địch lúc khởi đầu chiến tranh, trước khi kẻ địch kịp hành động; chủ động tìm địch mà đánh, bám thắt lưng địch mà đánh, tiến công địch ở khắp mọi nơi khi chúng mở rộng và kéo dài chiến tranh; chủ động tiến công địch ở cả trước mặt và sau lưng, trên tất cả các địa bàn rừng núi, đồng bằng và đô thị; đồng thời biết chủ động kết thúc chiến tranh... Kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ, giành quyền làm chủ để tiêu diệt địch là đường lối chiến lược quân sự của Đảng, quy luật giành thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở nước ta. Tuy nhiên, thực hiện chiến lược tiến công trong điều kiện kẻ thù xâm lược là những đế quốc, cường quốc có bộ máy chiến tranh khổng lồ, quân đội được huấn luyện bài bản, cơ động nhanh, hỏa lực mạnh, vũ khí, trang bị tối tân hiện đại, không phải lúc nào và ở đâu cuộc chiến đấu của quân và dân ta cũng chỉ có một bề thuận lợi, mà trái lại đó là chặng đường dài với biết bao thăng trầm, đầy thử thách và vô cùng ác liệt. Có thời kỳ cách mạng ở thế tiến công mạnh mẽ, nhưng cũng có thời điểm cách mạng lâm vào tình thế khó khăn. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, có những lúc do ta không kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, giữa tiêu diệt địch với giành quyền làm chủ, nên khi bộ đội chủ lực mở các đợt tiến công tiêu diệt địch, hỗ trợ cho nhân dân phá ấp chiến lược, khu dồn dân, sau đó rút đi, địch lại chiếm lại như cũ, quần chúng bị kìm kẹp gắt gao hơn. Để khắc phục tình trạng này, Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ đã sáng tạo ra phương châm ba bám (cán bộ, đảng viên bám dân để lãnh đạo; dân bám đất, bám làng để chiến đấu, sản xuất; du kích bám địch để đánh). Đảng bộ và nhân dân Khu 5 sáng tạo ra phương châm bốn bám (cán bộ, đảng viên bám dân; cấp trên bám cấp dưới; dân bám đất; du kích bám địch). Nhờ thực hiện phương châm “ba bám”, “bốn bám”, quân và dân miền Nam đã phát huy cao độ sức mạnh của chiến tranh nhân dân, khắc phục được khó khăn, từng bước đưa cách mạng miền Nam phát triển vững chắc, tiếp tục giữ vững thế tiến công, đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải đưa quân viễn chinh và quân đội đồng minh của Mỹ vào chiến trường miền Nam trong thế bị động về chiến lược.
Thực hiện chiến lược tiến công, đòi hỏi cơ quan chỉ đạo chiến lược, các cấp lãnh đạo, chỉ huy chiến trường luôn phải bám sát thực tiễn, lường định và phán đoán đúng khả năng diễn biến của tình hình, sớm nhận định đúng âm mưu và thủ đoạn mới của đối phương để có sự chuyển hướng kịp thời, tránh tổn thất. Hơn nữa, thực tế còn cho thấy, sau mỗi thắng lợi vang dội, nếu cứ say sưa với chiến thắng, không tỉnh táo, kịp thời nhận định hết khả năng phản ứng quyết liệt của kẻ thù thì cách mạng gặp khó khăn, tổn thất. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), ta đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Thế nhưng, từ đợt 2 tiến công và nổi dậy, lợi dụng ta dồn sức tiến công đô thị, bỏ ngỏ trận địa nông thôn, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiến hành phản kích quyết liệt vùng nông thôn đồng bằng của ta. Cách mạng bị mất đất, mất thế đứng chân ở vùng ven, vùng nông thôn, các đơn vị chủ lực của ta buộc phải lui về vùng giáp ranh biên giới và rừng núi, bộ đội địa phương, du kích đều giảm, nhiều cơ sở cách mạng bị địch phá vỡ... Cách mạng miền Nam lâm vào tình thế khó khăn, phức tạp. Nguyên nhân chính là do ta không phán đoán, dự kiến được chiều hướng phát triển của tình hình nên không biết kết thúc đúng lúc, chậm trễ trong chuyển hướng hoạt động về vùng nông thôn, mà vẫn tiếp tục mở nhiều đợt tiến công khi địch đã chuyển sang phản công quyết liệt và quan trọng là yếu tố bất ngờ không còn nữa. Đây là bài học sâu sắc về chỉ đạo chiến lược. Phải mất một thời gian khá dài sau đó, bằng tinh thần chiến đấu vô cùng quả cảm anh dũng, tìm ra muôn vàn phương thức để trụ bám đánh địch, quân và dân ta mới từng bước phục hồi cơ sở cách mạng và thế trận vùng nông thôn, đưa cách mạng vượt qua thời kỳ khó khăn, tiếp tục giữ vững thế tiến công.
Quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công trong điều kiện lấy ít địch nhiều, vấn đề quan trọng là phải chọn đúng hướng tiến công, nhất là hướng tiến công chiến lược. Trên cơ sở biết được tình hình mạnh, yếu của địch, ông cha ta luôn quán triệt tư tưởng tránh chỗ mạnh mà đánh chỗ yếu, đánh chỗ mềm mà không đánh chỗ cứng. Chỗ thực hay chỗ cứng là những nơi địch phòng bị chặt chẽ, khó tiến công hơn. Chỗ hư hay chỗ mềm là những nơi rất hiểm yếu nhưng địch lại sơ hở, không đề phòng mà ta có thể đánh bất ngờ giành thắng lợi, tạo nên rung động thế trận của địch khiến cho những chỗ mạnh, chỗ cứng hơn có liên quan của địch trở thành dễ, thành yếu, thành mềm. Ông cha ta có kinh nghiệm tránh tiến công vào các thành lũy hoặc nơi địch phòng ngự kiên cố, mà thường “đánh chỗ không có thành, công chỗ không có lũy, chiến chỗ không có trận”, đánh vào lúc quân địch không phòng bị hoặc lúc chúng đang trong tình trạng mệt mỏi, khủng hoảng tinh thần. Phùng Hưng bất ngờ chuyển mục tiêu tiến công vào thành Tống Bình; Lê Lợi bất ngờ chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An... là những điển hình về chuyển hướng tiến công chiến lược đúng đắn. Trong các trận đánh có tính chất quyết định, tùy theo hoàn cảnh và đối tượng cụ thể, mỗi vị tướng đều có cách chọn mục tiêu tiến công khác nhau. Khi thì chọn ngay hướng tiến công chủ yếu, vào đạo quân chủ yếu và bộ thống soái của địch (Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ); khi thì công kích vào hướng địch yếu trước, rồi mới đến đạo quân mạnh nhất của địch (Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Nguyễn Trãi). Ngoài những trận tiến công tiêu diệt những đạo quân tinh nhuệ và quan trọng, ông cha ta còn đánh vào các đạo quân vận tải lương thảo - hậu cần, các căn cứ, kho tàng quan trọng của địch nhằm cắt đứt “dạ dày” địch, khiến chúng lâm vào hoàn cảnh khốn đốn.
Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp tại Điện Biên Phủ.
Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, với quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp tại Điện Biên Phủ.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở giai đoạn trước Tổng khởi nghĩa, Đảng ta đã chọn hướng nông thôn để phát động khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích. Khi thời cơ đến, Đảng lại chọn hướng chính của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân là đánh vào thành thị, nhất là thủ đô và các thành phố lớn, do đó đã nhanh chóng làm cho quân địch bị tê liệt, tan rã. Trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), cùng với tiến công địch rộng khắp, liên tục ở mọi quy mô, vào những thời điểm quan trọng, trên cơ sở so sánh lực lượng và thế bố trí lực lượng giữa ta và địch, Đảng ta tổ chức nhiều chiến dịch lớn đánh vào những nơi rất hiểm yếu nhưng địch lại sơ hở, không đề phòng, mà ta có thể đánh bất ngờ giành thắng lợi, tạo nên rung động thế trận của địch, khiến cho những chỗ mạnh hơn có liên quan của địch trở thành dễ, thành yếu để ta tiếp tục những đòn tiến công tiếp theo.
Từ nguyên tắc này, hướng tiến công chiến lược được Đảng lựa chọn thường là nơi có thể phát huy được thế mạnh của ta, kiềm chế và phá được thế mạnh của địch, làm cho lực lượng nhỏ với vũ khí trang bị có hạn của ta có thể đánh thắng lực lượng lớn, vũ khí trang bị tốt hơn của địch. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ngoài một số chiến dịch ở đồng bằng, trung du, chúng ta thường chọn vùng rừng núi là địa bàn địch bộc lộ nhiều sơ hở, khó chi viện, ứng cứu lẫn nhau, đồng thời cũng là địa bàn thuận lợi để phát huy cách đánh sở trường của bộ đội ta để mở những cuộc tiến công lớn, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Thực tiễn cho thấy, chọn hướng, mục tiêu tiến công phù hợp, đánh đúng thời cơ thì lực lượng dù nhỏ cũng phát huy được sức mạnh, đạt được hiệu quả to lớn. Ngược lại chọn hướng tiến công không phù hợp với thực lực của ta và thế bố trí lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường đều không mang lại hiệu quả thì thậm chí sẽ bị tổn thất lớn về lực lượng. Từ sau chiến dịch Biên giới (1950) đến giữa năm 1951, quân và dân ta liên tiếp mở ba chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ (Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung), nhưng cả ba chiến dịch đều không đạt mục đích, yêu cầu chiến lược đề ra. Nguyên nhân chính là do chọn hướng tiến công không đúng. Đây là bài học sâu sắc trong chỉ đạo chiến lược.
Kinh nghiệm cho thấy, để chọn hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược bao quát cục diện chiến trường, phải nắm chắc mục tiêu, đối tượng tác chiến, phân tích cụ thể những chỗ mạnh, chỗ yếu của cả địch và ta; khi tiến công phải chuẩn bị đầy đủ, phải thực hiện nghi binh, lừa địch, làm cho địch bị bất ngờ về cả hướng, mục tiêu, thời gian và lực lượng tiến công. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, việc chọn hướng (khu vực) và mục tiêu tiến công đều dựa trên căn cứ so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch về cả chiến lược và chiến dịch. Khởi đầu cuộc kháng chiến, ta phát động phong trào Đồng khởi ở một số vùng nông thôn, sau đó phát triển thành chiến tranh ra khắp toàn miền, cả ở vùng núi và đồng bằng. Từ năm 1964 đến năm 1967, ta thường mở các chiến dịch tiến công địch ở địa bàn rừng núi hoặc vùng giáp ranh. Đến đầu năm 1968, đồng thời với các địa bàn trên, ta chọn đô thị, nhất là các đô thị lớn làm hướng tiến công chiến lược. Tiếp đó, năm 1972, ta chọn tuyến phòng ngự cơ bản của địch để mở ba chiến dịch tiến công lớn. Trong các chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá chương trình “bình định”, ta đã chọn đúng hướng để mở mảng, mở vùng là khu vực đồng bằng đông dân cư, nơi có tầm quan trọng chiến lược đối với cả phía ta và địch. Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, nhờ biết chọn hướng rừng núi Tây Nguyên, chọn đúng “điểm huyệt” là Buôn Ma Thuột, nơi có vị trí chiến lược quan trọng để mở đầu cho cuộc tổng tiến công; đồng thời, thực hiện xuất sắc việc nghi binh chiến dịch lừa địch, ta đã nhanh chóng chia cắt, phá vỡ thế chiến lược của địch, làm rung động toàn bộ hệ thống phòng thủ của chúng, mở ra bước ngoặt quyết định kết thúc chiến tranh.
3. Nghệ thuật lập thế trận toàn dân đánh giặc. Về quân sự, thế trận hình thành ở ba cấp độ lớn nhỏ khác nhau: thế trận chung của toàn cuộc chiến tranh - thế trận chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.
Thế trận chiến lược là thế trận khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân, cả nước đánh giặc. Đó là “sự thể hiện cụ thể của chủ trương, quyết tâm và kế hoạch chiến lược, là sự bày binh, bố trận để tiến hành tác chiến, tiêu diệt quân địch”1. Thế trận đó không phải bất biến mà là một phạm trù vận động, phát triển năng động, không chỉ phản ánh trạng thái tồn tại của lực lượng trong một không gian và thời gian nhất định, mà còn phản ánh xu thế vận động của lực trong sự tác động của thế và lực của cả hai bên. Do đó, có thế trận “ban đầu” và thế trận “chuyển hóa”. Xuyên suốt lịch sử, để thực hiện chiến lược tiến công, chống lại những đội quân xâm lược có quân số tham chiến đông hơn ta nhiều lần, cha ông ta đã dựa vào sức mạnh yêu nước, đoàn kết của toàn dân và dựa vào hình thế núi sông, địa lợi, nhân hòa để “bày binh, bố trận” trên cả nước, đánh tại chỗ, đánh trên không gian lớn. Bị sa vào thế trận đó, quân giặc từ thế tập trung lực lượng, dần bị phân tán, mất quyền chủ động, từng bước bị tiêu hao, mệt mỏi, suy yếu và cuối cùng bị ta tiêu diệt bằng đòn phản công chiến lược của quân chủ lực triều đình và sự truy kích mãnh liệt của lực lượng dân binh, thổ binh. Chính vì xây dựng được thế trận toàn dân đánh giặc, thực hiện “chúng chí thành thành”, nơi nào có dân là nơi đó giặc bị đánh, nên quân dân thời Lý - Trần luôn luôn giữ được thế chủ động chiến lược trong cả phòng ngự và phản công.
Trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh giải phóng, nghệ thuật dụng binh của cha ông ta là lấy nhân dân làm điểm tựa để xây dựng lực lượng từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh. Khi còn ở thế yếu thì dựa vào thế trận lòng dân, dựa vào căn cứ địa để bảo toàn và phát triển lực lượng. Khi tiến công địch, giải phóng đất nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, song yếu tố toàn dân đánh giặc vẫn là trực tiếp ở cả ba cấp độ: dân nuôi quân, dân làm hậu thuẫn cho quân và cùng trực tiếp tham gia đánh giặc. Nhờ đó đã tạo nên thế trận toàn dân đánh giặc với nhiều hình thức phong phú, bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, buộc địch phải căng kéo lực lượng ra nhiều nơi, nhiều hướng để chống đỡ. Vì vậy, quân địch tuy đông nhưng không thể tập trung được sức mạnh để tiêu diệt quân ta. Lịch sử dân tộc cũng có những triều đại không lập được thế trận toàn dân đánh giặc, chỉ dựa vào tác chiến đơn độc của quân đội như triều Hồ thế kỷ XV, triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX, nên không những không giành được chiến thắng mà còn dẫn tới họa mất nước.
Lập thế trận cả nước đánh giặc là một sáng tạo độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Thế trận đó thường được dựng sẵn một cách cơ bản từ thời bình hoặc được xây dựng, điều chỉnh linh hoạt trong tiến trình chiến tranh hay khởi nghĩa. Nó gồm các yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, thế trận đó được xây dựng dựa trên lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương, đất nước của lực lượng toàn dân trên khắp cả nước.
Thứ hai, thế trận toàn dân đánh giặc được tạo nên từ kết quả của việc áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông”, giúp cho nhân dân ai cũng có điều kiện tham gia việc binh, tạo nên thế trận cả nước đánh giặc, mỗi làng xã là một đơn vị chiến đấu. Thế trận đó được xây dựng và vận hành rất thành công trong các thời Lý, Trần và Lê sơ.
Thứ ba, nằm trong thế trận chiến lược chung của cả nước, mỗi địa phương đều có một vị trí chiến lược quan trọng, vừa tích cực triệt để khai thác những thuận lợi của địa phương để đánh giặc, vừa phối hợp với quân chủ lực và các địa phương khác cùng tiến công địch. Đây là lực lượng tại chỗ, có khả năng tiến công địch khắp mọi nơi, mọi lúc, cả trước mặt và sau lưng, khiến chúng phải phân tán lực lượng, bị hao mòn quân số, sa sút tinh thần.
Thứ tư, thế bố trí của các khối chủ lực (gồm cả quân bộ và thủy) ở địa bàn chiến lược, nhằm thực hiện đòn tiến công chiến lược. Đây là lực lượng thiện chiến, cơ động trên khắp cả nước, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác thực hành tiến công tiêu diệt lớn, giành thắng lợi quyết định. Trên cơ sở thế trận chung cả nước đánh giặc, trong từng trận đánh dù lớn hay nhỏ, ông cha ta luôn biết giành cho được địa hình, địa thế có lợi nhất cho ta, bất lợi nhất của cho địch để triển khai, bố trí lực lượng nhằm phá thế trận của địch; đồng thời, chủ động lập thế trận mai phục, điều địch vào thế trận ta đã bày sẵn để tiến công tiêu diệt.
Trên cơ sở xác định đúng hướng tiến công của giặc, dựa vào địa hình, địa thế, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt đều xây dựng thế trận vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu, bảo đảm đánh địch liên tục từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, khiến cho quân thủy, bộ của giặc không thể hội quân được; Ngô Quyền và Trần Quốc Tuấn lập trận địa mai phục trên sông Bạch Đằng; Lê Lợi, Nguyễn Trãi bố trí trận địa phục kích ở Tốt Động, Chúc Động hay ở Chi Lăng, Xương Giang. Nguyễn Huệ lập trận địa phục kích ở Rạch Gầm - Xoài Mút. Đó là thế trận đưa quân địch vào “thế trong miệng cọp”, dồn quân thù vào cái thế dù quân đông, lực mạnh nhưng “tất phải hàng”, “bó tay chờ chết”. Bằng nghệ thuật lập thế trận toàn dân đánh giặc, biết triệt để khai thác các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để đánh giặc, ông cha ta đã phát huy được mọi lực lượng dân tộc trên toàn bộ đất nước, biến hết thảy không gian của Tổ quốc thành một thế trận “thiên la địa võng”. Thế trận chiến lược đó được Trần Quốc Tuấn mệnh danh là “thế nhân trận” (thế trận hình người). “Hình trận dáng như chữ nhân, nghịch cũng như chữ nhân, tiến cũng là chữ nhân, thoái cũng là chữ nhân, họp lại cộng làm một người, tan ra cũng làm một người, nghìn muôn người hợp lại làm một trận, nghìn muôn người cộng làm một người”1. Đó chính là thế trận toàn dân đánh giặc, cả nước thành một mặt trận tiến công địch. Trong chiến tranh giải phóng, thế trận này tạo điều kiện cho quân và dân ta căng địch ra mà đánh, tiêu diệt địch, giải phóng đất đai và giành quyền làm chủ. Thế trận đó tạo điều kiện vững chắc cho khởi nghĩa vũ trang và toàn dân nổi dậy trong một vài khu vực phát triển thế tiến công ra khắp toàn quốc.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xuất phát từ tư tưởng khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân, nghệ thuật xây dựng thế trận khởi nghĩa vũ trang toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân được phát triển lên tầm cao mới. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, từ quan điểm khởi nghĩa toàn dân, Đảng ta đã tập hợp hết thảy mọi tầng lớp nhân dân, từng bước xây dựng, phát triển hệ thống căn cứ địa - chỗ đứng chân vững chắc, rộng khắp cả ở nông thôn, đồng bằng, thành thị và rừng núi; kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, giữa nổi dậy của quần chúng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh to lớn, áp đảo kẻ thù. Trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), thế trận chiến tranh nhân dân được tổ chức ngày càng chặt chẽ, tạo thế cài xen giữa ta và địch trên một không gian rộng lớn, không phân định rõ đâu là tiền tuyến, đâu là hậu phương. Trụ cột vững chắc của thế trận chiến tranh nhân dân là lực lượng vũ trang ba thứ quân: tạo nên một thế trận chiến lược hiểm hóc, vừa thực hiện được chia cắt, vây hãm địch, vừa tạo ra thế chủ động tiến công địch rộng khắp trên cả ba vùng chiến lược. Có thể ví thế trận đó như cấu trúc của hình tháp: phần chân tháp là hàng triệu dân quân, du kích, tự vệ gắn liền với lực lượng toàn dân; phần thân tháp là bộ đội địa phương gắn liền với lực lượng kháng chiến của từng huyện, tỉnh, thành phố; phần đỉnh tháp là bộ đội chủ lực.
Bằng nghệ thuật tổ chức lực lượng cả nước đánh giặc, sử dụng hai hình thức đấu tranh cơ bản (đấu tranh quân sự kết hợp đấu tranh chính trị), hai phương thức tác chiến chủ yếu (tác chiến tập trung và tác chiến du kích), ta đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân “thiên la địa võng” đối với quân thù. Thế trận chiến lược đó cho phép chúng ta thực hiện phối hợp tác chiến giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng tác chiến cơ động chủ lực; kết hợp đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích với đánh lớn, đánh tập trung, chính quy. Thế trận chiến lược đó cho phép chúng ta có thể mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có địch, đánh cả trước mặt, sau lưng, trong lòng địch; căng địch ra mà đánh, đánh mọi lúc, mọi nơi. Thế trận đó được giữ vững và ngày càng phát triển bởi hệ thống căn cứ địa, làng xã chiến đấu mọc lên khắp nơi, tạo thành thế thường xuyên bao vây, áp sát quân thù; đồng thời, là chỗ đứng chân, bàn đạp xuất phát tiến công vững chắc của các lực lượng, bảo đảm cho quân và dân ta luôn đánh địch ở thế chủ động, càng đánh càng mạnh. Đó là nghệ thuật tổ chức thế trận khoa học, thống nhất và chặt chẽ, làm cho toàn dân ta triệu người như một, tạo thành một sức mạnh to lớn để đánh địch, thắng địch. Đó là thế trận “chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt,... thế trận như một trận đồ bát quái, đánh địch cả ở đằng trước mặt và đằng sau địch, đánh địch ở các chiều, các hướng”1. Sa vào thế trận đó, các đội quân xâm lược buộc phải phân tán lực lượng với tỷ lệ ngày càng cao, khiến cho chúng đông mà hóa ít, mạnh hóa yếu, không phát huy được ưu thế của đội quân nhà nghề vốn được huấn luyện rất bài bản, thiện chiến, được trang bị nhiều vũ khí tối tân, hiện đại nhưng lại không phát huy được sức mạnh vũ khí. Vì vậy, chúng càng đánh càng bộc lộ sơ hở, càng đánh càng bị dồn vào thế bất lợi. Trên nền thế trận chiến tranh nhân dân, nghệ thuật lập thế trận chiến dịch của ta ngày càng phát triển. Căn cứ vào so sánh thế và lực giữa ta và địch cũng như yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược, lợi dụng triệt để yếu tố địa hình, địa thế, ở các chiến dịch, ta đã bố trí, triển khai các lực lượng và thiết bị chiến trường một cách thích hợp nhất để thực hành thắng lợi trận then chốt và các trận then chốt quyết định, hoàn thành toàn bộ nhiệm vụ chiến dịch.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, ta vừa có điều kiện tập trung lực lượng đánh tiêu diệt lớn, vừa có điều kiện căng địch ra khắp các chiến trường, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược ra nhiều hướng, đẩy địch lâm vào thế bị động đối phó ở khắp mọi nơi và cuối cùng phải chịu thất bại thảm hại tại lòng chảo Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở miền Bắc ta đã lập thế trận phòng không nhân dân nhiều tầng, nhiều lớp, bắn cháy hàng nghìn máy bay, tàu chiến, bắt sống hàng trăm giặc lái, đánh bại hoàn toàn hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Trên chiến trường miền Nam, dựa vào thế trận toàn dân đánh giặc, dựa vào hệ thống căn cứ địa, quyền chủ động chiến lược của ta ngày càng được củng cố và mở rộng. Đó là cơ sở để ta giữ vững thế chủ động tiến công, liên tiếp đánh bại các chiến lược, chiến thuật của địch. Khi quân Mỹ nhảy vào miền Nam, quân và dân các địa phương còn chủ động xây hệ thống “vành đai du kích diệt Mỹ” nhằm bao vây, tiến công địch ngay tại căn cứ xuất phát hành quân của chúng. Có vành đai bao vây, áp sát cả một thành phố, có vành đai bao vây căn cứ liên hợp, có vành đai bao vây một căn cứ địch, nhưng tất cả đều dựa chắc vào “thế trận lòng dân”, vào sức mạnh, ý chí kiên cường, quyết tâm bám trụ, tiêu diệt giặc của quân và dân ta. Dựa vào thế trận toàn dân đánh giặc, ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), đồng loạt đánh vào các thành phố, thị xã, các trung tâm đầu não của địch trên toàn chiến trường miền Nam, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
Đặc biệt, trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, quân và dân ta đã triển khai thế trận gồm cả lực lượng chính trị, quân sự, cả ba thứ quân vào một thế trận chiến lược và cơ động trên toàn chiến trường. Nòng cốt của thế trận này là ba khối chủ lực được bố trí ở Tây Nguyên, Huế, Đông Nam Bộ, có khả năng giáng những đòn tiêu diệt lớn về chiến dịch trên từng khu vực và khi cần thiết có thể tập trung nhanh chóng, tạo được thế áp đảo trên chiến trường quyết định. Với cách triển khai lực lượng như vậy, ta đã căng địch ra cả ba chiến trường trọng yếu; ghìm chặt quân chủ lực địch ở hai đầu chiến tuyến là Thừa Thiên và miền Đông Nam Bộ, tạo điều kiện để mở đòn tiến công ở chiến trường Tây Nguyên, phá vỡ thế trận chiến lược của địch, mở ra bước ngoặt quyết định kết thúc chiến tranh. Bằng thế trận toàn dân đánh giặc, phát huy sức mạnh cả về quân sự và chính trị, ta đã giáng cho địch những đòn sấm sét, đập tan bộ máy chiến tranh khổng lồ do Mỹ dày công xây dựng.

4. Phối hợp tác chiến chặt chẽ, linh hoạt giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động của chủ lực; kết hợp đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích với đánh lớn, đánh tập trung, chính quy
Trong khởi nghĩa cũng như trong kháng chiến chống ngoại xâm, trên cơ sở phát huy sức mạnh cả nước đánh giặc, dân tộc ta có kinh nghiệm tổ chức và sử dụng lực lượng chiến đấu rất độc đáo, sáng tạo. Tuy mỗi thời có khác nhau về tên gọi và tổ chức, nhưng việc xây dựng lực lượng vũ trang đều theo cách thức xây dựng nhiều thứ quân để huy động được nhân dân tham gia trực tiếp chiến đấu. Với cách tổ chức lực lượng như vậy, trong kháng chiến, dân tộc ta vừa thực hiện tác chiến tại chỗ kết hợp với lực lượng cơ động; kết hợp đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích của lực lượng tại chỗ với cách đánh lớn, đánh tập trung, chính quy của quân chủ lực, tạo nên sức mạnh to lớn đánh bại các đạo quân xâm lược hung bạo. Lực lượng tác chiến tại chỗ, trong thời kỳ cổ, trung đại, bao gồm quân ở các địa phương và dân binh (thổ binh, hương binh) có trách nhiệm giữ các lộ, các huyện và các thành quan trọng. Phạm vi tác chiến gồm:
Thứ nhất, tác chiến tại chỗ của lực lượng dân binh và dân chúng vũ trang tại các làng xã, chiến đấu bảo vệ quê hương, làng, bản.
Thứ hai, tác chiến trong vùng của một bộ phận quân chủ lực và dân binh trong từng lộ, từng huyện. Đó là sự kết hợp chặt chẽ của tác chiến làng xã trên toàn lộ, toàn huyện với tác chiến cơ động của quân chủ lực trên địa bàn tương ứng.
Thời hiện đại, lực lượng tác chiến tại chỗ thường là các đơn vị của lực lượng địa phương, bao gồm dân quân, tự vệ, bộ đội địa phương (có thể được tăng cường bộ đội chủ lực), được bố trí trên từng khu vực (địa bàn tỉnh, thành phố, quận, huyện, xã, phường...), có nhiệm vụ dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân thực hành đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, bảo vệ địa phương, bảo vệ căn cứ địa; căng kéo lực lượng địch, tạo điều kiện cho lực lượng cơ động đánh lớn. Lực lượng tác chiến cơ động chủ lực (hay còn gọi là du quân, đại quân) chủ yếu là quân chủ lực của triều đình (gồm bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh), làm nhiệm vụ cơ động trong cả nước, phối hợp với lực lượng tại chỗ thực hiện các trận đánh lớn. Thời hiện đại, lực lượng cơ động là bộ phận của bộ đội chủ lực trực thuộc Bộ Quốc phòng và quân khu, thực hiện nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường cả nước, trên mỗi vùng chiến lược (mặt trận) hoặc địa bàn mỗi quân khu, có nhiệm vụ thực hiện các chiến dịch, các trận đánh lớn, làm chuyển biến cục diện chiến trường. Phương thức tác chiến của quân chủ lực, thường có nhiều quân, binh chủng tham gia, cơ động linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với lực lượng tại chỗ, đánh địch tại các địa điểm và thời điểm quan trọng hoặc quyết định.
Trong chỉ đạo tác chiến, tùy theo so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch, trong từng thời gian và không gian cụ thể, sự phối hợp tác chiến giữa lực lượng tại chỗ với lực lượng chủ lực cơ động luôn được dân tộc ta vận hành linh hoạt, sáng tạo, tạo nên sức mạnh to lớn đánh bại các đạo quân xâm lược lớn mạnh. Để thực hiện chiến lược “tiên phát chế nhân”, nhà Lý đã phối hợp chặt chẽ giữa mũi tiến công của lực lượng tại chỗ ở vùng biên giới với mũi tiến công của quân chủ lực triều đình; khi rút về lập phòng tuyến chặn giặc ở Như Nguyệt thì thực hiện phương thức chiến tranh của quân chủ lực ở phía trước phối hợp chặt chẽ với phương thức tiến hành chiến tranh của quần chúng có vũ trang tại chỗ ở phía sau. Nhà Trần, nhờ có lực lượng tại chỗ mạnh, rộng khắp nên đã thực hiện thành công chiến thuật tiêu hao, tiêu diệt, kìm bước tiến quân của kẻ thù, tạo điều kiện cho quân chủ lực rút lui chiến lược. Khi thực hành phản công chiến lược thì phối hợp chặt chẽ tất cả lực lượng. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975), lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động tuy có vai trò, vị trí, nhiệm vụ riêng nhưng lại có sự phối hợp chặt chẽ, tương hỗ và thúc đẩy lẫn nhau trong thế trận chiến tranh nhân dân. Lực lượng tại chỗ đông đảo, có mặt khắp nơi là điều kiện để ta thực hiện nhiệm vụ kìm chân địch, giam chân địch ở mọi nơi, làm cho địch bị động, phân tán đối phó, bị hao mòn lực lượng, bộc lộ những sơ hở, yếu kém, tạo thời cơ cho bộ đội chủ lực của ta tiến hành những đòn chiến lược, mở rộng vùng giải phóng và căn cứ địa - hậu phương, giành đất, giành dân làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo đà cho chiến tranh nhân dân địa phương, cho lực lượng tại chỗ tiếp tục phát triển. Về mặt chiến lược, tác chiến tại chỗ còn là phương thức hoạt động của quân và dân ta nhằm chống phá âm mưu “bình định”, chiếm đất, dồn dân của địch, tiêu diệt từng phần đội quân xâm lược. Do đó, nó không đơn thuần là tác chiến quân sự mà còn kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận. Ngoài ra, lực lượng tác chiến tại chỗ còn đảm nhiệm vai trò chuẩn bị chiến trường, phối hợp tác chiến với quân chủ lực trong các cuộc tổng tiến công chiến lược và các chiến dịch, trận đánh.
Với màn thi đấu ngoạn mục, kíp xe số 3 đã mang về huy chương vàng và Cup luân lưu Tank Biathlon 2020 cho đội tuyển xe tăng Việt Nam tại Army Games 2020.
Với màn thi đấu ngoạn mục, kíp xe số 3 đã mang về huy chương vàng và Cup luân lưu Tank Biathlon 2020 cho đội tuyển xe tăng Việt Nam tại Army Games 2020.
Thực tiễn lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cho thấy, cả hai lực lượng đó đều có vị trí rất quan trọng trong thế trận toàn dân đánh giặc. Không có lực lượng tại chỗ thực hiện nhiệm vụ tiêu hao, phân tán, căng kéo, giam chân địch và cùng phối hợp tác chiến, thì lực lượng chủ lực cơ động không có được điều kiện, chỗ dựa vững chắc để tập trung lực lượng đánh lớn và giành được thắng lợi; ngược lại, không có lực lượng chủ lực cơ động mạnh, giáng những đòn tiêu diệt lớn, tạo điều kiện cho lực lượng tại chỗ phát triển thì không thể tạo ra được những bước ngoặt lớn, quyết định, làm xoay chuyển cục diện chiến trường, cục diện chiến tranh. Đó là mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau vì một mục đích chung là tiêu diệt địch, giải phóng dân tộc. Do đó, việc coi trọng xây dựng và tổ chức phối hợp tác chiến linh hoạt giữa hai lực lượng tại chỗ và chủ lực cơ động là một yêu cầu khách quan trong khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân của dân tộc ta. Thực tiễn chỉ rõ, có những triều đại (như triều Hồ thế kỷ XV, triều Nguyễn thế kỷ XIX) chỉ đơn thuần dựa vào quân đội tập trung, phạm sai lầm trong chỉ đạo chiến lược nên bị thất bại nhanh chóng.
Gắn với nghệ thuật tổ chức, phối hợp tác chiến giữa các lực lượng, dân tộc ta còn thực hành tiến công địch bằng nhiều cách đánh khác nhau, song tựu trung có hai phương thức tác chiến cơ bản: đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích và đánh lớn, đánh tập trung, chính quy. Điều đặc biệt là trên cơ sở so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch và tùy vào từng thời điểm cụ thể mà ông cha ta quyết định sử dụng cách đánh nào cho phù hợp mà vẫn giành được thắng lợi, đồng thời luôn biết vận hành, kết hợp chặt chẽ, tài tình, linh hoạt cả hai cách đánh đó, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Đánh phân tán, đánh nhỏ, du kích là cách đánh của đông đảo quần chúng vũ trang ở địa phương hoặc một bộ phận quân chủ lực hoạt động lẻ, đánh địch thường xuyên, khắp nơi. Có thời kỳ nó được đưa lên thành lối đánh chủ đạo của cả quân chủ lực và lực lượng tại chỗ như trong kháng chiến chống Tần (218-208 Tr.CN), kháng chiến chống Lương của Triệu Quang Phục (547-550). Đó là sử dụng cách đánh nhỏ, đánh lén, đánh ban đêm, tiêu hao dần lực lượng địch, cộng nhiều thắng lợi nhỏ thành thắng lợi lớn, làm cho địch khốn quẫn, sức cùng chí nản, cuối cùng phải chấp nhận thất bại bằng một trận phản công chiến lược của ta. Thời Trần, cách đánh nhỏ, đánh phân tán của các đội dân binh cùng dân chúng đã làm quân Mông - Nguyên nhanh chóng mất sức tiến công. Cách đánh phân tán, đánh nhỏ, du kích còn được dân tộc ta sử dụng rất hiệu quả trong thời kỳ đầu của các cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, khi mà tương quan lực lượng giữa dân tộc ta với quân địch quá chênh lệch, lực lượng vũ trang - quân chủ lực chưa được xây dựng hoàn thiện, kém địch về cả số lượng, trang bị vũ khí, thậm chí còn kém hơn địch về kinh nghiệm chiến đấu.
Trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đánh nhỏ, đánh du kích không chỉ là một vấn đề chiến lược quân sự mà còn là một vấn đề chiến lược cách mạng. Đó là cách đánh giặc của dân tộc nhỏ nhằm chống lại ách thống trị thực dân và đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc. Đó là cách đánh dựa vào tinh thần anh dũng, mưu trí, sáng tạo của quần chúng nhân dân, dân quân tự vệ, bộ đội địa phương và những bộ phận chủ lực hoạt động phân tán. Thường dùng hành động bất ngờ, linh hoạt, “lai vô ảnh, khứ vô tung”, đánh nhanh chuyển nhanh, khi phân tán, lúc tập trung, luôn luôn giữ quyền chủ động đánh địch khắp mọi nơi, mọi lúc, tận dụng mọi thứ vũ khí và đánh bằng mọi hình thức nhằm tiêu hao dần sinh lực địch, khiến cho chúng luôn trong tình trạng căng thẳng đối phó, ăn không ngon, ngủ không yên, tinh thần và ý chí chiến đấu bị suy sụp. Với muôn vàn phương thức đánh giặc độc đáo, sáng tạo, bằng tập kích, phục kích, bắn tỉa, quấy rối, ngăn chặn, đánh chông mìn, cạm bẫy, “độn thổ “, “độn thủy”, bẫy đá, đánh bằng “ong bò vẽ”... nghệ thuật “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy đoản binh chế trường trận” của ông cha được quân và dân ta phát triển lên một tầm cao mới.
Bộ đội bộ binh tấn công địch tại buổi diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh Hậu Giang năm 2019.
Bộ đội bộ binh tấn công địch tại buổi diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh Hậu Giang năm 2019.
Trên cơ sở chiến tranh du kích phát triển rộng khắp, chiến tranh nhân dân địa phương hình thành, phát triển và được tổ chức ngày càng chặt chẽ. Khắp trong vùng địch và xung quanh địch, hầu như làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có du kích hoạt động. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quán triệt tư tưởng phải biến mỗi căn nhà thành một ổ đề kháng, mỗi khu phố, mỗi làng xã thành một pháo đài chiến đấu, quân và dân ta đã xây dựng thành công hàng ngàn làng xã chiến đấu, đội du kích, đội tự vệ. Dựa vào thế trận này, ta đã chủ động đánh bại các đợt tiến công, càn quét của địch, góp phần phá tan âm mưu chiếm đất, giành dân của chúng. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên các địa phương miền Nam, ta đã xây dựng được hàng ngàn làng xã, ấp chiến đấu; nơi có điều kiện địa hình thuận lợi, nhân dân còn dựa vào cả lòng đất để xây dựng địa đạo kiên cố, hiểm hóc, nhằm duy trì chiến đấu lâu dài. Ngoài hình thức tổ chức làng xã, địa đạo chiến đấu, khi đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, với phương châm “tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt”, “bám thắt lưng địch mà đánh”, quân và dân các địa phương đã chủ động xây dựng hệ thống “vành đai du kích diệt Mỹ” nhằm bao vây, tiến công địch ngay tại căn cứ xuất phát hành quân của chúng. Cách đánh trên vành đai thường là kết hợp nhiều hình thức phong phú, kết hợp ba mũi giáp công, kết hợp tác chiến tập trung với tác chiến phân tán nhỏ lẻ; kết hợp tác chiến bên ngoài với sử dụng lực lượng đặc công thọc sâu vào bên trong, đánh sâu, đánh hiểm, đánh bất ngờ, nhằm tiêu diệt sinh lực cấp cao của chúng như sở chỉ huy, các căn cứ huấn luyện, đào tạo, các căn cứ phương tiện chiến tranh như sân bay, quân cảng, trận địa pháo và hệ thống kho tàng. Với nghệ thuật tổ chức chiến đấu sáng tạo cả về thế trận và cách đánh, vành đai du kích diệt Mỹ thực sự đã phát huy sức mạnh ghìm địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, giữ vững thế trận chiến tranh nhân dân, tạo thời cơ và địa bàn thuận lợi cho các đơn vị bộ đội chủ lực tập trung của ta cơ động tiến công địch. Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã dùng trăm phương ngàn kế vô cùng thâm độc nhằm chống và loại trừ chiến tranh du kích của ta, nhưng chúng đều bất lực.
Tuy nhiên, nếu chỉ giới hạn ở tầm chiến thuật thì không thể đạt được mục đích cao nhất của chiến tranh là tiêu diệt lớn lực lượng vũ trang địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trong lịch sử dân tộc cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ mang tính địa phương, do không mở rộng địa bàn và không có đủ lực lượng để tiến lên tác chiến lớn nên đã bị địch đàn áp. Vì vậy, gắn liền với hình thức đánh phân tán, đánh nhỏ, du kích, dân tộc ta ngày càng nâng cao nghệ thuật đánh lớn, đánh tập trung, chính quy. Đó là phương thức hoạt động của quân chủ lực, có nhiều binh chủng, quân chủng tham gia (có thời kỳ chủ yếu do bộ binh đảm nhiệm), cơ động trên phạm vi cả nước, tổ chức các trận đánh, các chiến dịch lớn, tạo điều kiện thúc đẩy các lực lượng nhỏ hoạt động có hiệu quả, đánh địch ở khắp nơi; đồng thời, phối hợp với lực lượng tác chiến tại chỗ thực hành những đòn tiêu diệt chiến lược, có ý nghĩa quyết định chiến tranh. Trong nhiều cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, do tương quan lực lượng ban đầu, quy luật giành thắng lợi của dân tộc ta là phải đi từ đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích, rồi tiến lên đánh lớn, đánh tập trung, chính quy và kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng hai cách đánh đó.
Chiến sỹ Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đột nhập theo đường sông đánh chiếm mục tiêu giả định trong điều kiện đêm tối.
Chiến sỹ Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đột nhập theo đường sông đánh chiếm mục tiêu giả định trong điều kiện đêm tối.
Lịch sử quân sự dân tộc đã chứng minh rõ hai phương thức đánh nhỏ, đánh phân tán, du kích và đánh lớn, đánh tập trung, chính quy đều có giá trị, tồn tại song song, tác động lẫn nhau, đưa dân tộc ta đến toàn thắng. Trong một số cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, có thời kỳ, cách đánh phân tán, đánh nhỏ, du kích được dân tộc ta đưa lên địa vị chủ yếu hoặc có những lần dựa vào quân đội, ta tổ chức đánh lớn, đánh tập trung ngay từ đầu, giành thắng lợi vang dội (như Ngô Quyền chống quân Nam Hán, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh). Song nhìn chung, trước kẻ thù lớn mạnh, quy luật phổ biến để giành chiến thắng của dân tộc ta là kết hợp chặt chẽ, linh hoạt hai cách đánh đó. Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt thực hiện đánh tập trung, đánh lớn trước nhằm phá thế trận giặc, sau đó kết hợp đánh nhỏ, đánh tiêu hao với đánh lớn, tạo thế và thời cơ phản công chiến lược. Thời Trần, đánh nhỏ, đánh phân tán của lực lượng tại chỗ buộc quân Mông - Nguyên phải phân tán lực lượng, không phát huy được sở trường, bị hao mòn lực lượng, tạo thời cơ tốt để quân chủ lực của ta thực hành phản công chiến lược, đánh những đòn quyết định như Tây Kết - Hàm Tử, Chương Dương - Thăng Long, Vạn Kiếp, Bạch Đằng... Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), khi lực lượng nghĩa quân đã lớn mạnh, trưởng thành, sự kết hợp giữa đánh phân tán với đánh lớn đã xuất hiện và đạt hiệu quả cao trong các trận đánh ở Bồ Đằng, Trà Lân, Tốt Động - Chúc Động, Chi Lăng - Xương Giang...
Trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), phát triển từ đánh du kích lên tập trung, kết hợp đánh tập trung và đánh du kích với quy mô ngày càng lớn là một kinh nghiệm sáng tạo của Đảng ta. Sức mạnh chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực luôn được kết hợp chặt chẽ, hiệu quả với phong trào toàn dân đánh giặc, phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng nhân dân trên cả ba vùng chiến lược. Một số nhà bình luận quân sự và học giả nước ngoài, khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện đại, thường cho rằng chiến tranh nhân dân đồng nghĩa với chiến tranh du kích. Đó là những nhận thức phiến diện, hoàn toàn trái với thực tế. Trong chỉ đạo chiến lược, Đảng ta không giới hạn ở một phương thức tác chiến nhất định mà luôn thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến du kích với tác chiến chính quy. Do đó, trong khi phát triển chiến tranh du kích, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng bộ đội chủ lực, từng bước hình thành những binh đoàn mạnh, những “quả đấm thép” đủ sức giáng cho địch những đòn tiêu diệt lớn, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường. Thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy.
5. Vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo, sử dụng lực lượng thích hợp, hiệu quả Trên cơ sở biết mình, biết người, tùy theo từng hoàn cảnh, đối tượng tác chiến cụ thể mà ông cha ta lựa chọn cách đánh giặc rất linh hoạt và sáng tạo đối với từng đối tượng, từng trận đánh cụ thể, luôn “quyền biến như đánh cờ, tùy cơ ứng biến” (Trần Quốc Tuấn). Có khi từ tác chiến du kích từng bước chuyển lên tác chiến tập trung, thực hành phản công hoặc tiến công lớn; có khi kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, tạo điều kiện giành thắng lợi quyết định trong những trận quyết chiến chiến lược; có khi đánh lớn ngay từ đầu, giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Có các hình thức tác chiến của dân binh, hương binh, thổ binh ở các địa phương, lại có các hình thức tác chiến của quân chủ lực. Có những hình thức đánh nhỏ bằng lực lượng tinh nhuệ như cách đánh của Yết Kiêu, Dã Tượng; lại có những hình thức đánh lớn như trong các trận Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Đống Đa... Có hình thức vây thành diệt viện như trận Chi Lăng, cũng có hình thức công thành khi cần thiết như các trận Xương Giang, Ngọc Hồi. Ngoài những hình thức dùng sức mạnh để diệt địch, còn có hình thức kết hợp dùng sức với dùng mưu như nghĩa quân Lam Sơn hạ thành Cổ Lộng.
Hàng trăm chiến sĩ dùng sức người kéo pháo vào trận địa, vượt qua núi cao, vực sâu, đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, góp phần xứng đáng vào chiến thắng của chiến dịch
Hàng trăm chiến sĩ dùng sức người kéo pháo vào trận địa, vượt qua núi cao, vực sâu, đảm bảo yếu tố bí mật, bất ngờ, góp phần xứng đáng vào chiến thắng của chiến dịch
Trong chiến đấu, tuy mỗi trận đánh diễn ra ở một không gian, thời gian, quy mô khác nhau và về hình thức có những trận tiến công, phản công, phòng ngự, nhưng ông cha ta đều quán triệt tư tưởng tiến công “lấy ít địch nhiều”, coi trọng yếu tố bí mật, bất ngờ (cả về hướng, mục tiêu tiến công, lực lượng, cách đánh, thời gian đánh). Cách đánh mai phục, đánh úp khi quân địch đang vận động hoặc mới dừng lại, hoặc dụ chúng ra khỏi thành quách, lừa địch đi vào các khu vực địa hình hiểm yếu, các trận địa ta đã mai phục sẵn để tiêu diệt được ông cha ta áp dụng rộng rãi ở mọi quy mô tác chiến mang lại hiệu quả “sức dùng một nửa mà công lập gấp đôi”.
Trong chiến đấu, ông cha ta luôn hành động bất ngờ, nhanh chóng, chính xác, thiên biến, vạn hóa. Đúng như Nguyễn Trãi đã tổng kết: “Việc binh phải nhanh chóng như thần,... thay đổi khôn lường” và “yếu đánh mạnh hay đánh bất ngờ”, tiến công quân địch không phòng bị. “Đó là những cách đánh thời xưa gọi là “xuất kỳ bất ý”, là “công kỳ vô bị”, là đánh bằng kỳ binh, phục binh, tức là những cách đánh không bộc lộ mục tiêu, không đối trận với địch, mà dựa vào điều kiện nhân dân ủng hộ mà phát huy cao độ tính bất ngờ, giáng những đòn rất mạnh, giải quyết trận đánh rất nhanh, sấm vang chớp giật”1. Người tiêu biểu cho lối đánh bất ngờ, thần tốc là Nguyễn Huệ. Nghệ thuật dụng binh của Nguyễn Huệ là luôn luôn táo bạo, đánh địch vào những thời điểm, vào những nơi mà chúng không ngờ tới; tiến quân đi như chớp giật: “Tướng như từ trên trời rơi xuống, quân như dưới đất chui lên”.
Trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, có trận chỉ đơn thuần do bộ binh hoặc thủy binh đảm nhiệm, nhưng phần lớn các trận đánh lớn, ông cha ta thường tổ chức phối hợp tác chiến giữa lực lượng quân đội với dân binh, thổ binh, giữa quân bộ và quân thủy, kỵ binh, pháo binh, tượng binh nhằm thực hiện những đòn tiêu diệt lớn quân địch cả ở trên bộ và trên sông. Bên cạnh lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt, còn có đông đảo nhân dân tham gia chiến đấu với nhiều hình thức như nghi binh kiềm chế, đánh úp các bộ phận lẻ, đốt phá doanh trại, lương thực của giặc... Trong từng trận đánh, tùy theo ý đồ tác chiến, ông cha ta đều có phương pháp tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng khoa học, chặt chẽ, mang lại hiệu quả cao. Chẳng hạn, trong các trận tập kích trên bộ và trên sông, ta thường sử dụng phần lớn lực lượng bí mật bố trí ở trận địa mai phục (các trận thủy chiến thường có bộ binh và thủy binh bố trí ở hai bên bờ), rồi sử dụng một lực lượng nhỏ để nhử địch vào trận địa do ta lựa chọn mà tiêu diệt địch. Trong các trận tiến công vào khu vực phòng ngự hoặc thành quách của địch, ông cha ta thường sử dụng nhiều lực lượng, nhiều binh chủng, chia thành nhiều hướng, nhiều mũi cùng tiến công, bao vây, chia cắt địch; đồng thời, bố trí một lực lượng làm nhiệm vụ diệt viện, không cho chúng ứng cứu cho nhau. Trong các trận phòng ngự, ta thường bố trí lực lượng chủ lực ở nơi xung yếu để chặn địch và sẵn sàng phản công, đồng thời sử dụng lực lượng tại chỗ thực hiện tiêu hao, quấy rối sau lưng quân địch, buộc chúng phải chuyển từ chủ động tiến công sang bị động phòng ngự. Khi thực hành phản công chiến lược, ông cha ta thường phối hợp chặt chẽ các lực lượng cùng tiến công, truy kích tiêu diệt địch.
Các lực lượng tham gia diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội.
Các lực lượng tham gia diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội.
Thời hiện đại, trong quá trình chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, để thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát động chiến tranh du kích, Đảng ta đã đề ra hình thức tác chiến đánh du kích với các chiến thuật: “hóa chẵn thành lẻ, hóa lẻ thành chẵn”, “mai phục”, “đánh úp”. Tương ứng với cách đánh đó là hình thức tổ chức: tổ vũ trang bí mật, tiểu tổ du kích, đội du kích. Trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến tranh du kích ở sau lưng địch được thực hiện bằng các hình thức vũ trang tuyên truyền, đánh du kích trên những quy mô khác nhau với các hình thức tổ chức đội vũ trang tuyên truyền, đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung; dần dần tiến lên các chiến dịch nhỏ với các trung đoàn chủ lực phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương. Sau đó, các chiến dịch lớn được thực hiện, vận dụng các hình thức tác chiến đánh vận động, đánh công kiên... Tương ứng với các hình thức tác chiến đó, bộ đội chủ lực được tổ chức thành các đại đoàn, chủ yếu là bộ binh, có những thành phần binh chủng kỹ thuật phối hợp. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, do yêu cầu cách đánh hiệp đồng binh chủng ngày càng cao, bộ đội chủ lực ngày càng phát triển với đầy đủ các quân, binh chủng, với vũ khí trang bị tiến dần lên hiện đại.
Về cách đánh, trong 30 năm chiến tranh cách mạng, quân và dân ta đã sáng tạo ra nhiều cách đánh giặc độc đáo, sáng tạo, linh hoạt mang lại hiệu quả cao. Đó là cách đánh kết hợp các hình thức tác chiến du kích của lực lượng tại chỗ (dân quân tự vệ, bộ đội địa phương) kết hợp với hình thức tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn của bộ đội chủ lực; kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng để vừa tiêu diệt địch, vừa không ngừng mở rộng quyền làm chủ trên cả ba vùng chiến lược. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhờ vận dụng những phương thức tác chiến hết sức phong phú đó, quân và dân ta đã đánh thắng các biện pháp chiến lược của địch như càn quét, bình định (1955-1964), tìm - diệt và bình định (1965-1968), chiến tranh giành dân (1969-1972), lấn chiếm và bình định (1973-1974).
Trong quá trình phát triển của chiến tranh nhân dân hiện đại, nghệ thuật chiến dịch của ta ra đời và ngày càng phát triển về cả loại hình và quy mô. Về loại hình chiến dịch, chúng ta có chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực tác chiến hiệp đồng binh chủng trên các chiến trường lựa chọn; có chiến dịch tiến công bằng lực lượng tinh nhuệ đánh vào các cơ quan đầu não, các hậu cứ và kho tàng của địch; có chiến dịch tổng hợp (kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa của quần chúng) ở nông thôn và thành thị; có chiến dịch phòng ngự của các lực lượng phòng không thuộc ba thứ quân.
Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn.
Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn.
Trong đại thắng mùa Xuân năm 1975, còn xuất hiện cả loại hình chiến dịch tiến công của các binh đoàn chủ lực tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trên một không gian rộng lớn với thời gian thần tốc. Về quy mô chiến dịch, giai đoạn đầu lực lượng chỉ có từ 1 đến 2 trung đoàn, sau đó phát triển đến sư đoàn; hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ngày càng nhiều. Đến cuối cuộc kháng chiến, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng bộ binh là 5 quân đoàn và nhiều binh chủng, quân chủng khác, phối hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng. Cách đánh chiến dịch của ta gắn liền với quá trình phát triển của thế trận chiến tranh nhân dân và với từng loại hình chiến dịch. Đối với chiến dịch tiến công, có hai phương thức tác chiến cơ bản:
Thứ nhất, tiến công địch ngoài công sự bằng cách đánh vận động chiến trên chiến trường rừng núi là chủ yếu, lấy tiêu diệt sinh lực địch là chính. Cách đánh này được áp dụng trong thời kỳ đầu chiến tranh, khi so sánh lực lượng giữa ta và địch còn rất chênh lệch.
Thứ hai, tiến công vào khu vực phòng ngự của địch bằng cách đánh vây điểm, diệt viện, kéo địch ra khỏi đồn bốt, công sự để tiêu diệt. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ta sử dụng cách đánh “vây, lấn, tấn, phá, triệt, diệt”, tức là thực hiện bao vây, đánh dần từng bước, tiêu diệt từng bộ phận địch từ ngoại vi vào tung thâm. Thuộc loại chiến dịch này còn có các chiến dịch tiến công tổng hợp, cách đánh chủ yếu là đồng thời phối hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên địa bàn mở chiến dịch để tiêu diệt sinh lực địch, giành đất, giành dân, mở rộng địa bàn đứng chân cho bộ đội chủ lực ở vùng địch kiểm soát. Đối với các chiến dịch phản công, cách đánh chủ yếu là kết hợp chặt chẽ giữa ngăn chặn của lực lượng vũ trang tại chỗ với lực lượng chủ lực cơ động nhằm tiêu diệt những bộ phận lực lượng chủ yếu của địch; kết hợp giữa đột phá với bao vây chia cắt, liên tục bẻ gãy từng mũi, từng cánh, đánh bại các đợt phản kích, phản đột kích của địch.
Đối với chiến dịch phòng ngự, cách đánh chủ yếu là kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự và tiến công, kiên quyết giữ vững trận địa với tích cực phản kích và tiến công ra ngoài công sự, chớp thời cơ mở các trận phản kích, đột kích then chốt tiêu diệt lực lượng tiến công nòng cốt của địch. Trong chiến dịch phòng ngự phòng không - không quân, ta luôn kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến tập trung bảo vệ những khu vực trọng điểm với tác chiến cơ động phục kích địch trên các hướng, kết hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng, các binh chủng, đánh địch bằng nhiều tầng hỏa lực.
Trong nghệ thuật tác chiến chiến tranh nhân dân Việt Nam hiện đại còn có những cách đánh rất đặc biệt. Đó là lối đánh giặc của lực lượng đặc công (trên bộ và dưới nước) và lực lượng biệt động. Hai cách đánh này xuất hiện từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và phát triển đạt đến trình độ cao cả về tổ chức và nội dung chiến thuật trong kháng chiến chống Mỹ. Chỉ với một lực lượng nhỏ nhưng đặc biệt tinh nhuệ, trang bị vũ khí gọn nhẹ, lực lượng đặc công có thể tập kích bất ngờ vào các mục tiêu quan trọng như cơ quan chỉ huy, trung tâm đào tạo huấn luyện, đơn vị thông tin, hậu cứ, tàu thuyền, hệ thống hạ tầng (sân bay, bến tàu, kho tàng, cầu đường), nơi ở hoặc câu lạc bộ, vũ trường, khách sạn của sĩ quan, cố vấn, chuyên gia, nhân viên kỹ thuật và phi công... tiêu diệt sinh lực cao cấp, phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, gây chấn động tinh thần và thiệt hại rất nặng cho đối phương. Lực lượng biệt động cũng được tổ chức gọn nhẹ, bí mật, linh hoạt, nhưng khác với đặc công, lực lượng này thường sống hòa trong dân, hoạt động sâu trong lòng địch, thường đánh đòn hiểm hóc, táo bạo, bất ngờ vào cơ quan đầu não và những mục tiêu quan trọng ở đô thị, nhất là trung tâm các thành phố trọng điểm. Sự phát triển cao trong cách đánh đặc công và biệt động là một nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự “lấy ít địch nhiều” trong thời hiện đại, “thể hiện tập trung khí phách anh hùng và trí tuệ Việt Nam, một hiện tượng quân sự ít thấy trong binh thư
của nhiều nước trên thế giới”1.



6. Kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận
Chiến tranh là sự thử thách toàn diện đối với mỗi quốc gia tham chiến. Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đi đôi với dùng sức mạnh quân sự, tiêu diệt địch trên chiến trường, ông cha ta luôn biết kết hợp chặt chẽ các mặt đấu tranh chính trị, binh vận và ngoại giao, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để đánh thắng kẻ thù. Mỗi mặt trận có vai trò, vị trí, tác dụng khác nhau, nhưng cùng thống nhất ở mục đích là tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong chiến tranh.
Trong mối quan hệ đó, mặt trận quân sự giữ vai trò chủ yếu, là mặt trận quyết liệt nhất, thực hiện tiêu diệt sinh lực, phá huỷ phương tiện chiến tranh, đánh bại ý chí xâm lược của địch; là mặt trận có ý nghĩa quyết định thắng lợi trực tiếp của chiến tranh, tạo đà, tạo thế và lực cho các mặt trận khác phát triển.
Mặt trận chính trị nhằm cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân, quy tụ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; khơi dậy lòng tự hào và niềm tin chiến thắng, phát huy sức mạnh của tính chính nghĩa, nhằm đánh vào chỗ yếu về chính trị - tinh thần của kẻ xâm lược phi nghĩa; đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ của địch, mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho kẻ thù bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo thuận lợi cho các mặt đấu tranh khác.
Mặt trận ngoại giao có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm đề cao tính chính nghĩa, phát huy thế mạnh của ta, tập hợp lực lượng, dư luận trong nước và trên trường quốc tế đoàn kết và ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta, phản đối chiến tranh, cô lập kẻ thù; đồng thời, triệt để lợi dụng những mâu thuẫn, bế tắc trong hàng ngũ địch, làm cho chúng ngày càng bị phân hoá, cô lập và bị động trên chiến trường, trong nước và thế giới. Vào cuối cuộc chiến tranh, khi kẻ thù đã ở thế thua, thế thất bại, ta chủ động đàm phán với địch nhằm tìm lối thoát trong danh dự cho đối phương, sớm kết thúc cuộc chiến tranh.
Mặt trận binh vận nhằm vận động đánh vào tư tưởng và tinh thần của địch làm tan rã hàng ngũ của đối phương, góp phần quan trọng để hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, toàn bộ tập đòan cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ " quyết chiến thắng đang phấp phới bay trên nóc hầm tướng de castries
Ngày 7/5/1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, toàn bộ tập đòan cứ điểm của địch ở Điện Biên Phủ đã bị quân ta tiêu diệt, lá cờ " quyết chiến thắng đang phấp phới bay trên nóc hầm tướng de castries
Người mở đầu nghệ thuật “vừa đánh vừa đàm” trong lịch sử quân sự nước ta là Lý Thường Kiệt. Sau khi đánh tan đạo quân Tống ở bờ bắc sông Như Nguyệt, để tiết kiệm sức lực, khỏi tốn xương máu, không đánh mà vẫn đạt được mục đích đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi, Lý Thường Kiệt đã khôn khéo chủ động mở mặt trận ngoại giao, thuyết phục được Quách Quỳ rút hết quân về nước. Thế kỷ XIII, nhà Trần đã kiên trì thực hiện đấu tranh ngoại giao mềm dẻo, khéo léo suốt cả quá trình trước, trong và sau cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên. Trên cơ sở giành được những thắng lợi quyết định trên mặt trận quân sự, kết hợp với đấu tranh ngoại giao khôn khéo, nhà Trần đã buộc vua Nguyên phải ngừng hẳn cuộc chiến. Thế kỷ XV, cùng với đòn tiến công quân sự, Lê Lợi, Nguyễn Trãi chủ trương “ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất” (ta mưu đánh vào lòng người, không đánh mà thắng). Nguyễn Trãi lên án mạnh mẽ bản chất phi nghĩa, tàn bạo của hành động xâm lược, chỉ ra thế tất yếu, bại vong của giặc Minh, đồng thời nêu cao sự nghiệp chính nghĩa và thế tất thắng của ta. Bằng lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, nghiêm khắc, nhưng rất thấu tình đạt lý, thấm đượm tinh thần nhân đạo, những bức thư dụ hàng của Nguyễn Trãi “có sức mạnh bằng mười vạn quân”, góp phần làm tan rã ý chí chiến đấu của quân xâm lược. Trong tình thế bị bao vây và được nghĩa quân vận động thuyết phục, quân Minh trong nhiều thành nối tiếp nhau hạ vũ khí ra hàng. Đặc biệt, sau khi 10 vạn viện binh của Liễu Thăng bị ta tiêu diệt, quân địch ở thành Đông Quan rơi vào tình thế bị bao vây, đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng với tinh thần nhân văn, đề cao đại nghĩa, tránh tổn thất xương máu không cần thiết và tạo điều kiện ngăn ngừa chiến tranh tiếp diễn, Nguyễn Trãi đã thuyết phục, vận động được tướng giặc Vương Thông cùng khoảng 10 vạn quân đầu hàng. Sau đó, nghĩa quân mở “Hội thề Đông Quan”, buộc quân Minh phải tuyên thệ chấm dứt chiến tranh. Nghĩa quân cấp ngựa, thuyền, lương thảo cho hàng binh nhà Minh về nước trong danh dự với mong muốn “sửa hòa hiếu hai nước, tắt muôn đời chiến tranh”. Thế kỷ XVIII, trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh, sau khi giành được thắng lợi quyết định trên mặt trận quân sự, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm phụ trách đấu tranh ngoại giao mềm dẻo với nhà Thanh, khiến cho vua Càn Long phải ra lệnh bãi binh và công nhận phong vương cho Nguyễn Huệ.
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến
Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu kế hoạch tác chiến
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, để làm thất bại âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”, lãnh đạo các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp luôn coi trọng kết hợp đấu tranh quân sự với binh vận nhằm lôi kéo, cảm hóa người Việt trong quân đội Pháp đứng vào hàng ngũ kháng chiến, quay súng chống lại kẻ thù. Việc vận động lính tập nhằm khai thác tối đa các điều kiện có sẵn (con người, vũ khí) để đánh địch, tạo ra yếu tố bất ngờ và bất lợi cho kẻ thù là một nét độc đáo của Việt Nam Quang phục hội và Việt Nam Quốc dân đảng. Đường lối đó là sự phát triển tư tưởng của cha ông ta “lấy gậy ông đập lưng ông”, dùng súng giặc giết giặc. Tuy chưa quan niệm được nếu không có cuộc khởi nghĩa của nhân dân thì những cuộc khởi nghĩa đơn độc của binh lính chỉ có thể thất bại mà thôi, nhưng tư tưởng binh vận của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã góp phần tạo nên một truyền thống binh vận mạnh mẽ ở nước ta, góp phần làm tan rã một khí cụ thống trị chủ yếu của quân thù1.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghệ thuật kết hợp đấu tranh giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận là một vấn đề chiến lược quan trọng trong đường lối cách mạng và đường lối kháng chiến của Đảng. Các mặt đó luôn được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp linh hoạt, nhuần nhuyễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và từng đối tượng cụ thể. Trong kháng chiến, trên cơ sở nắm bắt được ý đồ xâm lược của kẻ thù, Đảng chủ động thực hiện đấu tranh ngoại giao trước nhằm ngăn chặn hoặc trì hoãn chiến tranh để ta có thêm thời gian chuẩn bị. Khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giành, giữ nền độc lập dân tộc, Đảng luôn biết kết hợp nhịp nhàng giữa đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao và binh vận, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tiến công địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận) là một hình thức tổ chức độc đáo, sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Cùng với động viên, phát huy tinh thần yêu nước của toàn dân tộc kiên cường kháng chiến, trên mặt trận chính trị, Đảng luôn nêu cao sự nghiệp chính nghĩa, thế tất thắng của chiến tranh chính nghĩa; vạch trần tính chất tàn bạo, phi nghĩa, thế thua, thế thất bại của các đội quân xâm lược. Đó là phương pháp địch vận, chiến lược “tâm công” nhằm đánh vào điểm yếu chí cốt của địch là kẻ đi xâm lược, phi nghĩa, nhất định thất bại. Trên cơ sở giành được những thắng lợi quan trọng về quân sự, Đảng mở mặt trận đấu tranh về ngoại giao, binh vận kịp thời, đúng lúc, đúng đối tượng, nhằm phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự tiến công quân thù, giành thắng lợi trọn vẹn.
Như vậy, nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc ta được hình thành, phát triển gắn liền với các yếu tố địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội Việt Nam. Nghệ thuật quân sự Việt Nam đã giải quyết thành công vấn đề “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều” ở cả tầm chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; luôn quán triệt tư tưởng tích cực chủ động tiến công, nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, kết hợp chặt chẽ giữa quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận... Nghệ thuật quân sự của dân tộc ta là nghệ thuật toàn dân đánh giặc, đánh địch bằng nhiều lực lượng, bằng mọi thứ vũ khí, trên mọi quy mô, theo nhiều cách đánh vô cùng độc đáo, sáng tạo, linh hoạt, mang đậm dấu ấn tư chất và trí tuệ Việt Nam.
SÁCH LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM - TẬP 14
Trình bày: Phi Nguyen
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân