Đại tướng Văn Tiến Dũng - nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và Nhà nước, một vị tướng mưu lược, văn võ song toàn, tận trung với nước, tận hiếu với dân, có nhiều đóng góp quan trọng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần bổ sung, phát triển nền khoa học, nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Hơn 65 năm theo Đảng tham gia hoạt động cách mạng, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng đã có 26 năm liên tục đảm nhiệm trọng trách Ủy viên dự khuyết và Ủy viên chính thức Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1960 - 1986), 25 năm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1953 - 1978) và nhiều năm làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là với quá trình chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đồng chí Văn Tiến Dũng (bí danh là Lê Hoài), sinh ngày 2/5/1917, tại xã cổ Nhuế (nay là phường Cổ Nhuế 2), quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất nghìn năm văn hiến, giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, năm 1936, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào dân chủ và các cuộc đấu tranh công khai của công nhân thành phố Hà Nội. Khi tròn 20 tuổi, đồng chí vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (11/1937). Từ đây, đồng chí hoạt động ngày càng tích cực trong phong trào công nhân và bị thực dân Pháp bắt giam ba lần. Nhưng, lao tù của chế độ thực dân, cùng những đòn tra tấn dã man của kẻ thù, không khuất phục được khí tiết của người cộng sản, kiên cường. Đồng chí đã hai lần vượt ngục thành công, tìm cách bắt liên lạc với tổ chức đảng, tiếp tục hoạt động.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đồng chí được cử giữ chức Chính ủy Chiến khu 2. Tháng 11/1946, đồng chí được giao nhiệm vụ là Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Chính trị (tiền thân của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay), Phó Bí thư Trung ương Quân ủy. Trên cương vị mới, đồng chí đã góp phần đặt cơ sở cho công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí được giao làm Chính ủy, sau đó kiêm Tư lệnh Liên khu, Thường vụ Khu ủy Khu 3 (10/1949), Chính ủy kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320 (1951), đưa Đại đoàn 320 từng bước giành những thắng lợi quan trọng, mở rộng nhiều vùng tự do, xây dựng được nhiều căn cứ du kích. Với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán, tháng 11/1953, đồng chí Văn Tiến Dũng được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tham gia Tổng Quân ủy. Đồng chí cùng tập thể Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh tham mưu và tổ chức thực hiện kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi.
Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc, đồng chí dồn tâm sức, thời gian tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính quy, có đủ ba quân chủng: Lục quân, Phòng không - Không quân và Hải quân, góp phần xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng chiến đấu giải phóng miền Nam. Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, trực tiếp đưa quân viễn chinh vào xâm lược miền Nam và đưa lực lượng không quân, hải quân ra đánh phá miền Bắc, đồng chí cùng tập thể Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo trực tiếp các lực lượng đánh bại cuộc “chiến tranh phá hoại” miền Bắc của đế quốc Mỹ ra miền Bắc và các chiến lược chiến tranh mà chúng áp dụng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (4/1975), bằng cách đánh mang đậm tư tưởng “táo bạo thọc sâu kết hợp vu hồi và đột phá mạnh vòng ngoài” của đồng chí góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hòa bình lập lại, đất nước thu về một mối, đồng chí Văn Tiến Dũng cùng tập thể Quân ủy Trung ương, lãnh đạo, chỉ huy Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Từ thực tiễn chiến trường và trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng chí tiếp tục tham gia chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu, hoàn thành nhiều công trình tổng kết về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và về chiến tranh cách mạng Việt Nam... góp phần khẳng định tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để có thể vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương, phần thưởng cao quý khác.
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đồng chí được cử giữ chức Chính ủy Chiến khu 2. Tháng 11/1946, đồng chí được giao nhiệm vụ là Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Chính trị (tiền thân của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay), Phó Bí thư Trung ương Quân ủy. Trên cương vị mới, đồng chí đã góp phần đặt cơ sở cho công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí được giao làm Chính ủy, sau đó kiêm Tư lệnh Liên khu, Thường vụ Khu ủy Khu 3 (10/1949), Chính ủy kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320 (1951), đưa Đại đoàn 320 từng bước giành những thắng lợi quan trọng, mở rộng nhiều vùng tự do, xây dựng được nhiều căn cứ du kích. Với tư chất của một nhà chỉ huy quân sự mưu lược, quyết đoán, tháng 11/1953, đồng chí Văn Tiến Dũng được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tham gia Tổng Quân ủy. Đồng chí cùng tập thể Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh tham mưu và tổ chức thực hiện kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi.
Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc, đồng chí dồn tâm sức, thời gian tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tiến lên chính quy, có đủ ba quân chủng: Lục quân, Phòng không - Không quân và Hải quân, góp phần xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và sẵn sàng chiến đấu giải phóng miền Nam. Khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, trực tiếp đưa quân viễn chinh vào xâm lược miền Nam và đưa lực lượng không quân, hải quân ra đánh phá miền Bắc, đồng chí cùng tập thể Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo trực tiếp các lực lượng đánh bại cuộc “chiến tranh phá hoại” miền Bắc của đế quốc Mỹ ra miền Bắc và các chiến lược chiến tranh mà chúng áp dụng ở miền Nam Việt Nam. Đặc biệt là trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (4/1975), bằng cách đánh mang đậm tư tưởng “táo bạo thọc sâu kết hợp vu hồi và đột phá mạnh vòng ngoài” của đồng chí góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hòa bình lập lại, đất nước thu về một mối, đồng chí Văn Tiến Dũng cùng tập thể Quân ủy Trung ương, lãnh đạo, chỉ huy Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước vận dụng đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, từng bước xây dựng kế sách giữ nước một cách toàn diện, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Từ thực tiễn chiến trường và trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng chí tiếp tục tham gia chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu, hoàn thành nhiều công trình tổng kết về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và về chiến tranh cách mạng Việt Nam... góp phần khẳng định tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để có thể vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương, phần thưởng cao quý khác.
Chiến thắng Biên Giới năm 1950 vang dội đã làm nức lòng quân và dân cả nước. Sau chiến thắng, một số đồng chí được triệu tập lên Bộ Tổng Tư lệnh dự Hội nghị tổng kết chiến dịch Biên Giới. Kết thúc hội nghị, Trung ương Đảng đã giao cho Liên khu ủy và Bộ Chỉ huy Liên khu 3 nhiệm vụ thành lập đại đoàn chủ lực hoạt động ở chiến trường đồng bằng trong vùng địch tạm chiếm. Tháng 1/1951, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ thành lập Đại đoàn chủ lực 320 (Đại đoàn Đồng bằng). Đồng chí được Đại tướng Võ Nguyên Giáp dặn dò cần phải bắt tay ngay vào việc xây dựng đại đoàn để hoạt động sớm, kịp thời phối hợp với Chiến dịch Trung Du dự kiến sẽ diễn ra đầu năm sau (1952). Cùng với lời dặn dò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí không quên lời căn dặn của Bác Hồ: “Chú về đồng bằng, trong mọi hành động cần nhớ rằng chính trị ngang quân sự. Đánh được giặc lại phải được lòng dân, giành được dân. Đánh thắng, kỷ luật càng phải nghiêm, nhất là nghiêm đối với dân. Việc gì làm được cho dân thì đừng trù trừ. Có dân là có tất cả. Làm quân sự là phải tiến công. Đánh giặc mà không hiểu giặc, không hiểu mình thì đừng có đánh. Khi đã nắm chắc tình hình rồi thì phải dám quyết đoán, mạnh dạn và táo bạo...”.
Ngày 16/1/1951 tại khu rừng Mống Lá, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, Đại đoàn 320 - một trong sáu đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập. Những ngày đầu thành lập, trong điều kiện thiếu thốn về quân số, trang bị và còn yếu cả về kỹ thuật, chiến thuật, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra: Tổ chức, huấn luyện ra sao? Trang bị thế nào? Tác chiến ở đâu, như thế nào?... Kịp thời giải quyết những khó khăn đó, đồng chí Văn Tiến Dũng đã triệu Hội nghị Đảng ủy Đại đoàn đề ra phương châm: “Vừa chiến đấu vừa xây dựng, lực lượng có bao nhiêu đánh bấy nhiêu, có vũ khí gì, dùng vũ khí ấy”.
Dù Đại đoàn 320 chỉ có 4 tiểu đoàn, người chưa đủ, súng còn thiếu, song để cổ vũ tinh thần bộ đội, đáp ứng được yêu cầu “trận đầu phải thắng, chiến dịch đầu phải thắng”, Đại đoàn chọn hướng mở chiến dịch đầu tiên là phân khu Tây Bắc thị xã Sơn Tây. Bởi, đây là địa bàn nối liền Việt Bắc với Khu 3, là bức “bình phong” của Tây Bắc Hà Nội. Đảng ủy đại đoàn nhận định: Lực lượng địch ở đây tuy có mạnh hơn ta, hệ thống bố phòng của địch có phần vững chắc, nhưng thế phòng ngự của địch lại có nhiều sơ hở; bộ đội chủ lực chưa xuất hiện ở địa bàn lần nào khiến địch càng thêm chủ quan. Vành đai ngoài cứng nhưng cả mạng lưới đồn bốt bên trong lại yếu và mỏng. Nếu ta đánh sâu vào trong sẽ tạo được thế bất ngờ. Trước đợt tiến công mãnh liệt của ta ngay từ đầu, địch dễ bị vỡ từng mảng lớn. Nhận rõ cách bố phòng của địch có bộc lộ sơ hở, đồng chí Văn Tiến Dũng lệnh cho cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 320 tranh thủ ngày đêm, hối hả chuẩn bị lên đường, với niềm tin sắt đá và khẩu hiệu: “Phải đánh thắng trận đầu, đánh thắng chiến dịch đầu”. Đồng chí cùng bộ đội hành quân theo Trung đoàn Thăng Long, đơn vị chủ công đánh địch trên đường 11 phía bắc Sơn Tây, từ thị xã tới Trung Hà. Vượt qua đồn bốt, tháp canh, quân ta lặng lẽ, bí mật luồn sâu vào vùng sau lưng địch, nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa. Chỉ trong một đêm, ta đã tiêu diệt gọn chín đồn địch và đánh thêm được mấy trận phục kích quân tiếp viện. Chiến thắng Sơn Tây tuy nhỏ bé nhưng với Đại đoàn 320 là bước nhảy vọt. Trong nhiều mục đích đã đạt được, cái được lớn nhất là được lòng dân. Dân tin, dân yêu bộ đội và bộ đội tin dân, thương dân, đúng như những lời căn dặn của Bác Hồ. Đối với riêng đồng chí Văn Tiến Dũng, đây là bước thử thách đầu tiên khi Đảng và Bác Hồ đưa ông sang tham gia gánh vác một phần sự nghiệp quân sự của Đảng.
Ngày 20/3/1951, Đại đoàn lại nhận được lệnh tiếp tục lên đường chiến đấu, phối hợp với các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Sơn Tây trong Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (còn gọi là Chiến dịch đường 18, diễn ra từ ngày 23/3 đến ngày 7/4/1951). Trong trận đánh này, Bộ Tư lệnh Đại đoàn đã quyết định thay đổi phương án tác chiến bí mật, nhanh chóng tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm, diệt một số vị trí địch sơ hở rồi nhanh chóng rút quân. Đêm 24/3/1951, Đại đoàn nổ súng tiêu diệt các đồn cầu Trôi, Lai Khánh, Ngọc Tảo, uy hiếp và tiêu hao 2 đồn Gò Gai, Phú Ốc trong thị xã Sơn Tây. Những trận đánh của Đại đoàn 320 ở Sơn Tây đã góp phần thu hút 2 binh đoàn cơ động của địch, tạo điều kiện cho các đơn vị bạn đánh địch trên đường số 18.
Đến Chiến dịch Quang Trung (hay còn gọi Chiến dịch Hà Nam Ninh, 28/5 – 20/6/1951), là lần đầu tiên cùng lúc ba đại đoàn chủ lực (304, 308, 320) và bộ đội địa phương, dân quân du kích cùng ra quân đánh giặc. Với tư tưởng chỉ đạo không ngừng tiến công, cùng phương thức luồn sâu tác chiến trong lòng địch, các chiến sĩ Đại đoàn 320 dưới sự chỉ huy của đồng chí Văn Tiến Dũng đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích các tỉnh Hà Nam, Nam Định liên tục tiến công địch, tiếp tục giành thắng lợi.
Tiếp đó, để phối hợp với mặt trận chính Hòa Bình, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng và chỉ huy Đại đoàn 320 quyết định tiến công thị trấn Phát Diệm - cụm cứ điểm vững chắc (gồm 10 vị trí) nằm sâu trong khu căn cứ hậu phương an toàn của địch. Với đòn bất ngờ, chỉ sau một đêm, ta đã làm chủ Phát Diệm. Phát huy chiến quả này, trong vòng nửa tháng sau đó, phong trào chiến tranh nhân dân địa phương phát triển mạnh mẽ, hầu hết địa bàn huyện Yên Mô, một phần huyện Kim Sơn được giải phóng, các khu du kích được củng cố vững chắc và mở rộng thêm.
Sau những thắng lợi ở Ninh Bình, Chỉ huy Đại đoàn 320 quyết định tiến quân sang Tả ngạn sông Hồng, biến hậu tuyến của địch thành tiền phương của ta, đánh bung ra giải phóng những khu vực rộng lớn ở đồng bằng, đưa cuộc chiến tranh nhân dân ở đồng bằng lên một bước mới. Từ đây, Đại đoàn 320 đã vào sâu trong vùng sau lưng địch, bám trụ xây dựng lực lượng và tác chiến. Quyết định này là hết sức táo bạo nhưng vô cùng sáng tạo của Đảng ủy Đại đoàn 320 và cá nhân đồng chí Văn Tiến Dũng.
Trong thời gian ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, Đại đoàn chủ lực 320 phối hợp cùng Đại đoàn 304 và bộ đội địa phương Liên khu 3 tranh thủ vừa xây dựng, vừa chiến đấu, cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành quân Brơtanhơ (Opération Bretagne, 1/12/1952 – 4/1/1953) của 5 binh đoàn cơ động địch ở Nam Định. Trong khi đó, Trung đoàn 52 của Đại đoàn 320 phối hợp với các trung đoàn 57, 66, 9 của Đại đoàn 304 và bộ đội địa phương, dân quân du kích đánh địch ở Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch, bảo toàn lực lượng ta, giữ vững khu căn cứ. Vừa chiến đấu, các đơn vị vừa tranh thủ chỉnh huấn chính trị, quân sự, tập trung vào các kỹ thuật lớn và chiến thuật du kích, rút kinh nghiệm qua các cuộc chống càn. Sau đợt hoạt động tác chiến Đông Xuân 1952 - 1953, các đại đoàn chủ lực lần lượt từ chiến trường trở về vùng tự do hậu phương của ta. Đại đoàn bộ binh 320 từ vùng địch hậu ở Hà - Nam - Ninh tập kết ra vùng tự do Tây Nam Ninh Bình và tỉnh Thanh Hoá. Từ tháng 6 năm 1953, Đảng bộ Đại đoàn 320 triển khai đợt chỉnh huấn chính trị…
Với tài năng quân sự được minh chứng trong nhiều năm hoạt động, nhất là những chiến công xuất sắc ở chiến trường Đồng bằng Bắc bộ kể từ khi làm Chính ủy kiêm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 320, tháng 11/1953, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị quyết định bổ nhiệm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, được bổ sung vào Tổng Quân ủy. Như vậy, trong vỏn vẹn 34 tháng (1/1951 – 11/1953) làm Chính ủy kiêm Đại đoàn trưởng, đồng chí Văn Tiến Dũng đã chỉ huy Đại đoàn 320 tham gia 8 chiến dịch lớn nhỏ, trong có có chiến dịch tạo chuyển biến lớn như: Chiến dịch Hòa Bình và Chiến dịch Tây Nam Ninh Bình. Chính chiến trường đồng bằng và Đại đoàn 320 là nơi đồng chí Văn Tiến Dũng được phát triển tài năng quân sự xuất chúng của mình, chỉ huy bộ đội đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn của các binh đoàn cơ động thực dân Pháp.
Cuối năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, đồng chí Văn Tiến Dũng được Trung ương Đảng giao nhiệm vụ giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và tham gia Tổng Quân ủy (11/1953). Đảm trách cương vị Tổng Tham mưu trưởng vào thời điểm quyết định của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thiếu tướng Văn Tiến Dũng đã điều hành Bộ Tổng Tham mưu thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, làm nên trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ. Tháng 7/1954, ông được cử làm Trưởng đoàn đại diện Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam tại Hội nghị Trung Giã. Tại hội nghị này, đồng chí Văn Tiến Dũng đã cùng với các thành viên trong đoàn đấu tranh trực diện với phái đoàn Pháp, thỏa thuận được các thủ tục và biện pháp về ngừng bắn trên toàn Đông Dương, trao trả tù binh, chuyển quân tập kết và thống nhất việc tổ chức Ủy ban liên hiệp Trung ương và các địa phương.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho Bộ Tổng Tham mưu cùng các địa phương và lực lượng vũ trang trên miền Bắc kịp thời chuyển vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu; củng cố, phát triển lực lượng, trang bị của Quân đội, nhất là các quân chủng, binh chủng mới; tổ chức lực lượng và trang bị đưa vào chiến trường miền Nam và Lào. Chuẩn bị về cơ cấu tổ chức, chuyển mọi hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến trên cơ sở kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, bố trí lực lượng để vừa chiến đấu, vừa sản xuất và huy động nhân tài, vật lực cho chiến tranh. Đồng thời, chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam - Bắc để sẵn sàng đối phó khi đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các quyết sách mà Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề ra, trong đó có sự đóng góp to lớn của đồng chí Văn Tiến Dũng đã góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi của quân và dân miền Bắc trong chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đỉnh cao là Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
Tại chiến trường miền Nam, khi đế quốc Mỹ đưa quân ồ ạt vào các chiến trường, đồng chí Văn Tiến Dũng đã cùng với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề xuất với Bộ Chính trị nhiều chủ trương chiến lược, sách lược kịp thời, nhất là việc tổ chức xây dựng các đơn vị cơ động cấp trung đoàn, sư đoàn đứng chân tại các địa bàn chiến lược trên chiến trường miền Nam để kết hợp với các phương thức tác chiến của chiến tranh nhân dân đánh bại các đơn vị quân Mỹ, quân đội Sài Gòn và quân các nước đồng minh Mỹ, làm phá sản các chiến lược chiến tranh mà Mỹ áp dụng ở miền Nam Việt Nam.
Sau ngày giải phóng, trên cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí Đại tướng Văn Tiến Dũng tiếp tục có những cống hiến to lớn trong việc chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân tham gia củng cố các vùng mới giải phóng, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh và triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Như vậy, suốt 25 năm làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1953 - 1978), Đại tướng Văn Tiến Dũng đã đồng hành cùng đất nước đi qua những tháng năm gian khổ, khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập dân tộc; là vị Tổng Tham mưu trưởng kiên trung, đức độ, tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Bằng cách đánh bí mật, táo bạo, thọc sâu ngay vào vùng địch hậu, đồng chí Văn Tiến Dũng được coi là người mở đầu cho cách đánh “nở hoa trong lòng địch”. Tháng 1/1951, ngay trong trận xuất quân đầu tiên của Đại đoàn 320 nhận lệnh phối hợp với Chiến dịch Trung du của Bộ Tổng Tư lệnh, Đại đoàn 320 xuất quân trận đầu, với tinh thần tích cực tiến công, có bao nhiêu đánh bấy nhiêu, chỉ với 3 tiểu đoàn (trong tổng số 4 tiểu đoàn) vừa tập trung về, đồng chí Văn Tiến Dũng đã chỉ huy các đơn vị bí mật từ chân núi Ba Vì, vượt qua nhiều đồn bốt, tháp canh, làng tề, luồn sâu vào vùng sau lưng địch, chiếm lĩnh trận địa, nhanh chóng và bí mật, bất ngờ đánh vào phân khu Tây Bắc thị xã Sơn Tây - nơi có hệ thống bố phòng cơ bản vững chắc, vòng ngoài cứng, công sự kiên cố do quân Âu - Phi chiếm giữ, nhưng hệ thống đồn bốt bên trong lại yếu và mỏng, địch lại luôn chủ quan cho rằng “chủ lực Việt Minh có mọc cánh cũng không lọt vào đây được”. Ngay trong đêm, bộ đội và dân quân du kích phối hợp tiêu diệt gọn 9 đồn địch.
Cuối năm 1951, khi đang huấn luyện ở Thanh Hóa, Đại đoàn 320 nhận nhiệm vụ phối hợp với mặt trận chính của Chiến dịch Hòa Bình, liền cấp tốc hành quân về địa bàn đồng bằng sông Hồng và bí mật, táo bạo, bất ngờ, thọc sâu vào vùng địch hậu Phát Diệm, Ninh Bình. Nắm được Phát Diệm là đầu não của địch ở một vùng Thiên chúa giáo, là một cụm cứ điểm “rắn” và hiểm trở do hệ thống kênh mương chia cắt rất phức tạp, là khu căn cứ hậu phương an toàn của địch nằm sâu trong hành lang phòng ngự vòng ngoài, đêm 20/12/1951, các đơn vị ta đã vượt qua hơn 20km dày đặc đồn bốt địch và sông rạch, sình lầy, bất ngờ nổ súng tiến công. Chỉ sau mấy giờ chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 10 cứ điểm lớn nhỏ, sau đó tiêu diệt toàn bộ lực lượng cứu viện của địch. Phát huy thắng lợi, ta phát triển ra đánh vỡ vành đai vòng ngoài, tiêu diệt, bức rút, bức hàng hàng loạt vị trí, tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân địa phương, mở rộng vùng giải phóng và các khu du kích ở Ninh Bình.
Đến Chiến dịch Tây Nguyên (3/1975), nghệ thuật đánh “nở hoa trong lòng địch” của đồng chí Văn Tiến Dũng tiếp tục được vận dụng, phát huy có hiệu quả vào trận Buôn Ma Thuột – trận then chốt mở màn chiến dịch. Đồng chí Văn Tiến Dũng đã có ý kiến dùng một binh đoàn cơ giới thọc sâu vào Sở Chỉ huy của địch đóng ở hậu cứ Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn. Mũi thọc sâu đó đã cùng các mũi tiến công khác hoàn thành nhiệm vụ tiến công và giành thắng lợi vang dội. Buôn Ma Thuột bị đánh tan một cách nhanh chóng, tạo nên “hiệu ứng đôminô” khiến toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch trên địa bàn Tây Nguyên sụp đổ hoàn toàn. Góp phần tạo nên cục diện mới trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tiến lên giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Trước chuyển biến mau lẹ trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định đồng chí Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam vào Tây Nguyên, cùng với các đồng chí và một số cán bộ của các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, tổ chức thành một bộ phận đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ở chiến trường miền Nam, mang bí danh: Đoàn A75. Như vậy, cơ quan chỉ huy quân sự tối cao lúc này đã hình thành cả ở phía trước và phía sau, vừa sâu sát mặt trận vừa bao quát ở tầm chiến lược, vĩ mô, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ huy đúng đắn, kịp thời. Quyết định này được giữ tuyệt đối bí mật. Đến cuối tháng 3 năm 1975, Chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Sau đó là những thắng lợi liên tiếp ở các mặt trận Huế, Đà Nẵng. Cách mạng miền Nam lúc này đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Trước thời cơ chiến lược mới, Bộ Chính trị quyết tâm thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”.
Ngày 7 tháng 4 năm 1975, tại Hội nghị Trung ương Cục bàn về kế hoạch tiến công Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Văn Tiến Dũng thay mặt cơ quan Tiền phương Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh phát biểu nhấn mạnh ưu thế của ta và yêu cầu cần dứt điểm càng nhanh càng tốt. Đồng thời, điện đề nghị Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đốc thúc các cấp, các ngành trên cả hai miền Nam, Bắc tăng cường lực lượng, chi viện kịp thời cho chiến trường trọng điểm.
Theo đó, Bộ Chính trị quyết định tiến hành chiến dịch và thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Sài Gòn - Gia Định (từ ngày 14/4 đổi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh), do đồng chí Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng, bản kế hoạch tác hiến được xây dựng chi tiết tỉ mỉ, khẩn trương trong vòng 1 tuần lễ (từ ngày 15 đến ngày 21/4/1975). Ngày 22 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh duyệt lại lần cuối kế hoach tác chiến và kế hoạch bảo đảm; giao khu vực tác chiến và mục tiêu tiến công cụ thể cho từng quân đoàn trên từng hướng. Tại buổi duyệt này, tấm bản đồ Quyết tâm Chiến dịch Hồ Chí Minh được trải trên bàn với những nét vẽ đỏ tươi chỉ 5 hướng tấn công của các binh đoàn vào Sài Gòn - Gia Định, giống “như 5 bông sen nở tung ra từ năm mục tiêu tấn công chủ yếu… Dinh Độc lập trở thành hợp điểm của các cánh quân giải phóng Sài Gòn”. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh Chiến dịch và đồng chí Phạm Hùng, Chính ủy cùng ký vào tấm bản đồ đó. Kế hoạch này nhanh chóng được Bộ Chính trị phê duyệt. Các đơn vị lần lượt đến sở chỉ huy nhận nhiệm vụ tiến công theo từng hướng.
Thực hiện kế hoạch tiến công Sài Gòn - Gia Định, 17 giờ ngày 26 tháng 4 năm 1975, cuộc Tổng công kích đánh chiếm thành phố Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. Đến 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, lá cờ chiến thắng đã được kéo lên trên dinh Tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng, hoàn thành triệt để cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước và mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại tướng Văn Tiến Dũng - một vị tướng có tinh thần quyết thắng lớn và tài thao lược xuất chúng, một người cộng sản kiên cường, bất khuất - đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng của Đảng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tướng Văn Tiến Dũng “là một trong những vị tướng lĩnh chỉ huy xuất sắc có uy tín lớn của Quân đội ta, là một nhà chiến lược, một người lãnh đạo đầy tinh thần cách mạng tiến công, đã đóng góp quan trọng vào thắng lợi của chiến tranh nhân dân qua các cuộc kháng chiến và vào nền khoa học và nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam”.
“Đồng chí là tấm gương sáng ngời về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Cả cuộc đời anh Văn Tiến Dũng gắn liền với sự nghiệp đấu tranh cách mạng Việt Nam, gắn trực tiếp với con đường binh nghiệp. Anh Văn Tiến Dũng tài về quân sự, giỏi cả về chính trị. Anh đã đóng góp phần quan trọng vào nghệ thuật quân sự và nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Ngày xuất bản: 12/12/2024
Nội dung: Đại úy, ThS Nguyễn Ngọc Toán, Viện Lịch sử Quân sự
Ảnh: QĐND; TTXVN; Sưu tầm
Tranh chân dung nhân vật: Họa sĩ Đỗ Hoàng Tường
Trình bày: Tạ Lư - Phạm Sơn