Việt Nam Giải phóng quân

Dưới ánh sáng Chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Ban Thường vụ Trung ương Ðảng ngày 12-3-1945, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ "tiền khởi nghĩa".
Tranh thủ khi chính quyền thân Nhật còn yếu, ở nhiều nơi đã tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền cơ sở như Thanh La (Tuyên Quang), Ba Tơ (Quảng Ngãi)... các đội vũ trang cách mạng đã có bước phát triển. Ðội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân sau khi giành thắng lợi hai trận đầu là Phai Khắt và Nà Ngần đã nhanh chóng phát triển thành đại đội và theo chỉ đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh, tiến xuống phía nam. Cứu Quốc quân đã phát triển với ba đội 1, 2 và 3. Ở các chiến khu đã thành lập các đơn vị vũ trang.
Trước những diễn biến nhanh chóng của tình hình quốc tế và trong nước, sự phát triển của phong trào cách mạng trong cả nước, sự lớn mạnh của các đơn vị vũ trang, Ban Thường vụ Trung ương Ðảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc Giang). Tham dự hội nghị có chỉ huy các đội vũ trang, các chiến khu gồm: đại diện Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, đại diện Cứu Quốc quân; đại biểu chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa); đại biểu các chiến khu ở Bắc Bộ, cùng các đồng chí Lê Thanh Nghị, Trần Ðăng Ninh... Trong những ngày diễn ra hội nghị (từ ngày 15 đến 20-4-1945), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, các đại biểu đã thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quân sự cách mạng của cả nước.
Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, hội nghị nhấn mạnh: Tình hình đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Về chính trị, hội nghị đề ra nhiệm vụ đoàn kết toàn dân, lôi kéo tất cả các thành phần, tầng lớp vào phong trào cứu quốc, đẩy mạnh phong trào bằng cách kêu gọi nhân dân vũ trang tuần hành trong những vùng chưa phát động chiến tranh du kích. Hội nghị đề nghị một cuộc đại biểu đại hội gồm có các giới, các đảng phái, các thân sĩ toàn quốc để thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam và tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam.
Về quân sự, hội nghị quyết định chia toàn quốc thành bảy chiến khu, đề ra nhiệm vụ xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa chống Nhật kiểu mẫu để mở rộng chiến tranh du kích, sáp nhập một số tỉnh trung du và căn cứ địa Việt Bắc để làm vùng hoạt động du kích, bảo vệ căn cứ. Hội nghị quyết định thống nhất Cứu Quốc quân, Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân thành một lực lượng vũ trang thống nhất có tên gọi là Việt Nam Giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa. Hội nghị cũng đề ra những điểm cơ bản để xây dựng Việt Nam Giải phóng quân như thống nhất biên chế, thống nhất huấn luyện chính trị, quân sự; tổ chức công tác chính trị trong bộ đội, trau dồi kỷ luật...


Chấp hành Nghị quyết Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, ngày 15-5-1945, tại xã Ðịnh Biên Thượng, huyện Ðịnh Hóa, tỉnh Thái Nguyên, đã diễn ra lễ hợp nhất Ðội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu Quốc quân thành Việt Nam Giải phóng quân. Có mặt tại buổi lễ có lực lượng Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân từ Cao Bằng xuống; Cứu Quốc quân 1 từ Bắc Sơn - Võ Nhai, Ðại Từ lên; Cứu Quốc quân 3 từ Tuyên Quang sang. Các lực lượng Việt Nam Giải phóng quân được biên chế thành 13 đại đội. Ðồng chí Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh. Các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức thống nhất, biên chế theo kiểu "tam tam chế", mỗi tiểu đội có 12 người, ba tiểu đội thành một trung đội, ba trung đội thành một đại đội. Vũ khí trang bị của Việt Nam Giải phóng quân được tăng cường cả súng máy, súng cối 60 ly lấy được của Pháp và Nhật. Tiếp đó, một số tỉnh, huyện cũng tổ chức ra các Trung đội Việt Nam Giải phóng quân, là lực lượng vũ trang của địa phương. Ngay sau khi thành lập, Việt Nam Giải phóng quân đã đánh tan cuộc càn quét lớn của hàng nghìn quân Nhật vào khu giải phóng, bảo vệ được khu giải phóng. Ðến tháng 7-1945, Việt Nam Giải phóng quân lại đánh một trận lớn, tiêu diệt đồn Nhật ở Tam Ðảo (16-7-1945).
Tháng 8-1945, sau khi quân Nhật bại trận và đầu hàng Ðồng minh, trước tình hình quân đội Nhật và chính quyền thân Nhật đang hoang mang, dao động cực độ, Ðảng ta lập tức phát động tổng khởi nghĩa bằng sử dụng đồng thời cả tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng và nổi dậy của lực lượng chính trị quần chúng, kết hợp chặt chẽ hai đòn ấy trong một thế trận chung, một thế tiến công chung của một cuộc khởi nghĩa toàn dân vĩ đại. Ở các địa phương trong cả nước, lực lượng chính trị quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang, là lực lượng xung kích hỗ trợ đã nhanh chóng giành được chính quyền cách mạng. Dưới quyền chỉ huy của các Ủy ban khởi nghĩa, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân, du kích từ căn cứ địa Việt Bắc và các chiến khu khác cùng tiến gấp về các địa phương đánh địch, trực tiếp xóa bỏ chính quyền địch và thành lập chính quyền cách mạng hoặc mở đường cho quần chúng xông lên lật đổ chính quyền địch, lập chính quyền cách mạng. Tại Việt Bắc, một đơn vị Việt Nam Giải phóng quân từ Tân Trào tiến về Thái Nguyên đánh địch, phối hợp quần chúng lập chính quyền cách mạng ở đây, sau đó tiến thẳng về Hà Nội. Các đơn vị giải phóng quân Cao Bằng tiến đánh thị xã Cao Bằng, Hà Giang. Tại các chiến khu và căn cứ vũ trang khác, các đơn vị giải phóng quân cũng tỏa đi giành chính quyền ở các huyện lỵ, phủ lỵ, tỉnh lỵ...
Trong Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, 52 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố lúc đó đã sử dụng lực lượng chính trị là chính có kết hợp với lực lượng vũ trang để giành chính quyền và 11 trong tổng số 63 tỉnh, thành phố dùng lực lượng vũ trang kết hợp với lực lượng chính trị tiến công địch. Trong những ngày bão táp cách mạng, Việt Nam Giải phóng quân và hàng vạn chiến sĩ tự vệ đã đóng vai trò là lực lượng xung kích, lực lượng nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền.
Trong những ngày chính quyền cách mạng còn trứng nước, lực lượng vũ trang cách mạng đã làm chức năng một quân đội của nhà nước cách mạng, chiến đấu chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược, tiêu diệt bọn phản cách mạng, tiễu phỉ, trừ gian, bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Cách mạng thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Việt Nam Giải phóng quân còn là hạt nhân để xây dựng và phát triển Vệ Quốc đoàn, Quân đội quốc gia Việt Nam về sau. Từ 13 đại đội chủ lực giải phóng quân và một số trung đội, đại đội địa phương tỉnh, huyện lúc đầu, đến tháng 10-1945, mỗi tỉnh trong cả nước đều đã có một chi đội với quân số khoảng từ 400-500 (tương đương tiểu đoàn) đến 2.000 người (tương đương trung đoàn).


Việt Nam Giải phóng quân ra đời với vũ khí trang bị tốt hơn, có tổ chức biên chế chặt chẽ, tổ chức thống nhất, đã đóng vai trò là lực lượng bảo vệ căn cứ địa, vùng giải phóng, bảo vệ chính quyền cách mạng ở những nơi mới thành lập và cùng toàn dân tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu bước phát triển rất quan trọng của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển từ các Ðội Tự vệ đỏ đến Quân đội nhân dân cách mạng. Ðó cũng là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một đội quân thống nhất, một lực lượng vũ trang thống nhất với biên chế tổ chức khá chặt chẽ, cương lĩnh chính trị, quân sự rõ ràng. Chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Ðảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một lực lượng vũ trang thống nhất để làm mũi nhọn phối hợp cùng lực lượng chính trị của toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân khi thời cơ cách mạng chín muồi. Việt Nam Giải phóng quân đã cùng toàn dân hoàn thành sứ mạng ấy một cách vẻ vang, giành lại nền độc lập cho nước nhà, xây dựng và bảo vệ nền dân chủ.
E-Magazine | Nhandan.vn
Bài đăng Báo Nhân Dân ngày 09/12/2009
Nội dung: THS PHAN SỸ PHÚC (VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM)
Trình bày: PHI NGUYEN
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân, QĐND, Báo Hải Quân