Việt Nam nghiêm túc triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền con người
Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, được thể hiện xuyên suốt trong Hiến pháp, pháp luật và các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở chính sách nhất quán đó, Việt Nam đã nghiêm túc triển khai các nghĩa vụ và cam kết quốc tế trong lĩnh vực quyền con người, trong đó có các khuyến nghị theo UPR (Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát) mà Việt Nam đã chấp thuận tại chu kỳ III năm 2019 và từ đó đến nay đã tiến hành rà soát, tổng kết tình hình triển khai thực hiện để xây dựng Báo cáo giữa kỳ tự nguyện này.
Những kết quả được ghi nhận
Tại Phiên thông qua Báo cáo UPR chu kỳ III1 tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (tháng 7/2019), Việt Nam đã thông báo chấp thuận 241/291 khuyến nghị (đạt 83%). Ngày 31/12/2019, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện các khuyến nghị đã chấp thuận tại Quyết định số 1975/QĐ-TTg phân công cụ thể trách nhiệm triển khai của 18 bộ, ngành. Báo cáo này là nỗ lực tích cực của Việt Nam nhằm thể hiện cam kết và đóng góp trách nhiệm đối với tiến trình UPR, đồng thời được xây dựng qua quá trình đóng góp ý kiến của các cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương, các bên liên quan trong đó có các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, các đối tác và người dân. Báo cáo này cũng đã tích hợp, dẫn chiếu nhiều nội dung, kết quả phản ánh trong các Báo cáo giữa kỳ gần đây của Việt Nam về thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, trong đó có các Báo cáo giữa kỳ thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị (ICCPR) (tháng 3/2021), Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) (tháng 1/2021), Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT) (tháng 10/2020), qua đó tạo sự liên thông, kết nối và kế thừa giữa các báo cáo quốc gia liên quan của Việt Nam.
Cho đến nay, Việt Nam đã thực hiện 82,6%2 các khuyến nghị đã chấp thuận tại UPR chu kỳ III với một số kết quả nổi bật như sau:
Xây dựng nhà nước pháp quyền và hoàn thiện thể chế pháp luật3
Việt Nam tiếp tục các nỗ lực cải cách, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Năm 2020, lần đầu tiên Chính phủ tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác xây dựng, hoàn thiện và thi hành pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 43/CT-TTg ngày 11/12/2020 về nâng cao chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật. Với việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), quy trình xây dựng luật, pháp lệnh tiếp tục được hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể hơn nhằm nâng cao trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp của các cơ quan trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết; quy định hợp lý, sát thực tế hơn quy trình xây dựng chính sách.4
Từ năm 2019 đến tháng 1/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua 39 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên như Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Thanh niên năm 2020, Luật Giáo dục năm 2019, Luật Cư trú năm 2020, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020,… Thực hiện một số khuyến nghị, các đơn vị đầu mối của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cũng đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp các cam kết quốc tế của Việt Nam như việc nghiên cứu sửa đổi Luật Trẻ em, nghiên cứu xây dựng dự thảo Luật Phòng, chống mại dâm, nghiên cứu sửa đổi Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, nghiên cứu xây dựng Luật Chuyển đổi giới tính…
Quá trình xây dựng, soạn thảo, ban hành các VBQPPL được bảo đảm công khai, dân chủ, minh bạch và tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tham gia ý kiến một cách rộng rãi, thuận lợi và hiệu quả. Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành VBQPPL năm 2020 đã bổ sung các quy định rõ ràng, cụ thể hơn về trách nhiệm phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc cũng như trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc lấy ý kiến và nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý công khai trên các Cổng thông tin điện tử trong quá trình xây dựng VBQPPL.
Trong lĩnh vực cải cách hành chính, Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả” do Thủ tướng Chính phủ đề ra, gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử, tăng cường trách nhiệm và sự tham gia phản biện, đóng góp ý kiến của người dân, tổ chức trong quá trình xây dựng và tổ chức thực thi chính sách. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB)5, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)6 năm 2019, nhiều chỉ số thành phần của Việt Nam có giá trị tăng điểm số hoặc thăng hạng như Khởi nghiệp kinh doanh, Cấp phép xây dựng, Tiếp cận điện năng, Tiếp cận tín dụng, Nộp thuế, Chỉ số tuân thủ pháp luật.7 Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,8 ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai một cách toàn diện, đồng bộ Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.9
Việt Nam nỗ lực bảo đảm việc độc lập xét xử của Tòa án, quyền được xét xử công bằng và theo đúng trình tự, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tháng 11/2021, Quốc hội đã thông qua nghị quyết cho phép Tòa án nhân dân được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tạo điều kiện cho công tác xét xử đúng tiến độ trong bối cảnh dịch Covid-19. Tòa án Nhân dân tối cao cũng đang nghiên cứu xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên.
Đồng thời, một số khuyến nghị đã được thực hiện một phần hoặc đang trong quá trình nghiên cứu, rà soát pháp luật để điều chỉnh, liên quan đến vấn đề nghiên cứu thành lập Cơ quan nhân quyền quốc gia, điều chỉnh tuổi trẻ em phù hợp Công ước Quyền trẻ em, phòng chống bạo lực và phân biệt đối xử trên cơ sở giới, phòng chống mua bán người... Một khuyến nghị liên quan việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật hình sự và tư pháp hình sự đang được xem xét thực hiện vào thời điểm phù hợp. Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ 01/12/2021). Các nội dung này đã được đưa vào Kế hoạch tổng thể cấp quốc gia về việc tăng cường thực thi hiệu quả Công ước ICCPR (Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị) và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền.10
Bảo đảm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa11
Nỗ lực phát triển kinh tế và bảo đảm sinh kế, tạo nền tảng cho việc thụ hưởng các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa: Việt Nam tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống. Quốc hội đã thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2025, Đề án Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, với nhiều chính sách, biện pháp toàn diện, cụ thể. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, đạt mức 0,706 vào năm 2020, thuộc nhóm các nước có mức phát triển cao của thế giới.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, đồng thời tiến hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua khó khăn như: cắt giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; kéo dài thời gian miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp từ 1/1/2021 tới năm 2025 (miễn khoảng 7.500 tỷ đồng/năm, tương đương khoảng 332,5 triệu USD); giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất và các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng.
An sinh xã hội12: Việt Nam tiếp tục chú trọng bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện tốt chính sách đối với người có công; quan tâm chăm lo, trợ giúp các đối tượng yếu thế, nhất là người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng lên, đời sống của hộ nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội từng bước được cải thiện. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 81,7% năm 2016 lên 90,85% năm 2020. Các đối tượng chính sách như người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng kinh tế-xã hội khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi, người hơn 80 tuổi … được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế (năm 2020, 99% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế).
Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành các chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19 như việc ban hành các gói hỗ trợ 62.000 tỷ đồng (năm 2020, tương đương khoảng 2,75 tỷ USD) và 26.000 tỷ đồng (năm 2021, tương đương khoảng 1,15 tỷ USD) dành cho người khó khăn vì dịch Covid-19 cùng nhiều gói hỗ trợ cho các đối tượng cụ thể khác. Các tổ chức, cá nhân trong xã hội cùng chung tay hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn.
Quyền sức khỏe, y tế13: Chất lượng dân số từng bước được cải thiện, tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 73,7 tuổi, tăng so với năm 2015 (73,3 tuổi). Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được duy trì rộng khắp trong cả nước, trong đó có vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đặc biệt, trong thời gian phòng chống dịch Covid-19, y tế cơ sở đã có vai trò quan trọng trong phòng chống dịch và chăm sóc sức khỏe người dân, nhất là người cao tuổi, người mắc bệnh mãn tính tại cộng đồng.
Chính phủ Việt Nam bảo đảm tiêm vaccine phòng Covid-19 miễn phí cho người dân theo thứ tự ưu tiên theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Các biện pháp bảo đảm việc điều trị cho người mắc Covid-19 cũng đã được triển khai. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu khi đại dịch lan nhanh ở Việt Nam, người mắc Covid-19 đã được điều trị miễn phí, bảo đảm cách ly tại khu điều trị để tránh lây lan ra cộng đồng.
Quyền giáo dục14: Luật Giáo dục quy định Nhà nước bảo đảm ngân sách chi cho giáo dục, đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Nhà nước còn tạo điều kiện để người dân được học liên tục mọi nơi, học suốt đời dưới nhiều hình thức, như thực hiện các Đề án “Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015-2020”, Đề án “Xóa mù chữ đến năm 2020”. Trong giai đoạn 2012-2020 đã xóa mù chữ cho 295.308 người trong độ tuổi 15-60, nâng tỷ lệ biết chữ độ tuổi từ 15-60 là 97,85% và độ tuổi từ 15-35 là 99,3%. Việt Nam cũng đã ban hành nhiều chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho các nhóm yếu thế, trong đó tập trung hỗ trợ học sinh, sinh viên vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, nhất là trong dịch Covid-19. Khi đại dịch bùng phát mạnh, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm hạn chế đứt gãy các hoạt động giáo dục và việc thụ hưởng giáo dục của học sinh, sinh viên, trẻ em như chuyển sang hình thức học trực tuyến để thích nghi với điều kiện mới, tạo thuận lợi cho việc học tập, bảo đảm tiến độ và chất lượng chương trình giáo dục, triển khai hỗ trợ máy tính và các thiết bị công nghệ cho các học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, ở vùng dân tộc thiểu số.
Quyền nước sạch và vệ sinh15: Nước sạch và vệ sinh môi trường tại vùng nông thôn luôn được Chính phủ quan tâm và dành ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Các phong trào bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư có sự chuyển biến tích cực, hiệu quả. Năm 2020, tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh tại Việt Nam đã đạt từ 95-100%, đạt mục tiêu mà Lộ trình thực hiện Mục tiêu Phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030 đề ra. Các chính sách, dự án về nước sạch và vệ sinh môi trường tại vùng nông thôn đã góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo tại các địa phương.
Về quyền tiếp cận thông tin16: Việt Nam đã đạt những thành tựu đáng ghi nhận trong tăng cường việc tiếp cận thông tin rộng khắp của người dân, đặc biệt là người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.
Số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là gần 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020-2021 (chiếm hơn 70% dân số), cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Số lượng tài khoản mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Tỷ lệ người Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%. Mạng lưới viễn thông tiếp tục được hiện đại hóa và phát triển rộng khắp với mức phủ sóng đạt 99,7% dân số, trong đó mạng 3G và 4G phục vụ 98% dân số.
Kể từ khi Luật An ninh mạng có hiệu lực thi hành từ năm 2019, các hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng bị phát hiện, xử lý đã góp phần bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Theo báo cáo xếp hạng An toàn an ninh mạng toàn cầu (GCI) năm 2020 do Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) công bố mới đây, Việt Nam đã tăng 25 bậc trong 2 năm, vươn lên vị trí thứ 25 trong tổng số 194 quốc gia, vùng lãnh thổ và đứng thứ 7 trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và thứ 4 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 8/2020, Việt Nam đã khởi động Cổng dữ liệu quốc gia để làm điểm đầu mối trên Internet phục vụ việc công bố dữ liệu mở, cung cấp thông tin, chia sẻ dữ liệu của cơ quan nhà nước; cung cấp các tài liệu, dịch vụ, công cụ, ứng dụng xử lý, khai thác dữ liệu được công bố bởi các cơ quan nhà nước. Hiện Cổng dữ liệu quốc gia Việt Nam đã công khai 10.595 bộ dữ liệu mở, tăng cường minh bạch dữ liệu và quyền của người dân, doanh nghiệp trong khai thác, sử dụng dữ liệu cơ quan nhà nước phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa.
Hiện nay, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện và đưa vào vận hành thử nghiệm Cổng thông tin điện tử phổ biến giáo dục pháp luật quốc gia nhằm cung cấp thông tin pháp luật phục vụ nhu cầu tìm hiểu, tra cứu, phản hồi của người dân, doanh nghiệp.
Về quyền tự do lập hội17: Dự án Luật về hội đang trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện. Tính đến tháng 12/2021, Việt Nam có 93.425 hội18, trong đó có các tổ chức, hiệp hội của thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, người cao tuổi, người khuyết tật, các hội từ thiện, các tổ chức khoa học, nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ… Các hội tham gia tích cực vào đời sống xã hội, tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, thể chế, triển khai các chính sách phát triển kinh tế xã hội, hỗ trợ các nhóm dễ bị tổn thương, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm quyền con người.
Về quyền tự do báo chí, biểu đạt: Tính đến hết năm 2021, Việt Nam có 816 cơ quan báo chí, trong đó có 230 báo, tạp chí thực hiện hai loại hình in và điện tử, 557 cơ quan báo chí in, 29 cơ quan báo chí điện tử; 72 cơ quan có giấy phép hoạt động phát thanh truyền hình; 79 kênh phát thanh và 198 kênh truyền hình trong nước, 54 kênh truyền hình nước ngoài được biên tập để cung cấp trên dịch vụ truyền hình của Việt Nam; 9.792 đài truyền thanh cơ sở.
Việt Nam đã ban hành nhiều quy định nhằm bảo vệ nhà báo và phóng viên trước mọi hình thức phân biệt đối xử và bạo lực như việc ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản năm 2020, trong đó quy định xử phạt đối với các hành vi cản trở trái pháp luật hoạt động báo chí. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thúc đẩy xây dựng hành lang pháp lý trong xử lý thông tin vi phạm pháp luật, bảo đảm nguồn thông tin lành mạnh trong xã hội, xác lập rõ và minh bạch hơn các nghĩa vụ và quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, từ đó nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của người dân và cán bộ, công chức, nhà báo, hạn chế các vi phạm.
Tự do tôn giáo, tín ngưỡng19: Việt Nam hiện có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và có hàng ngàn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung độc lập được đăng ký sinh hoạt tôn giáo. Việt Nam hiện có 62 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo. Hằng năm hơn 10.000 người tham dự các khóa đào tạo, bồi dưỡng thần học, giáo lý do các tổ chức tôn giáo tổ chức.
Trong những năm gần đây, đặc biệt sau khi triển khai Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra hết sức sôi nổi, phong phú về cấp độ, số lượng và phạm vi hoạt động. Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK 2019, Tổng hội dòng Đa Minh thế giới… đã được đăng cai và tổ chức thành công tại Việt Nam. Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung20, mời chức sắc nước ngoài hoặc chức sắc Việt Nam giảng đạo, cho phép nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo từ nước ngoài vào Việt Nam… Những điểm mới trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng giúp đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của các tổ chức, cá nhân tôn giáo21.
Về vấn đề thi hành án hình sự và tố tụng hình sự: Sau khi Luật Thi hành án hình sự năm 2019 được thông qua, nhiều VBQPPL liên quan đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng toàn diện, phù hợp Luật, đặc biệt là Nghị định 133/2020/NĐ-CP ngày 09/11/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự và Nghị định 133/2021/NĐ-CP ngày 14/12/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 120/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam với những điều chỉnh theo hướng tăng quyền lợi của người bị tạm giữ, tạm giam và người chấp hành án hình sự22. Việt Nam chỉ áp dụng án tử hình23 với các tội phạm nghiêm trọng nhất trên cơ sở quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản liên quan. Nhiều biện pháp đang được Chính phủ triển khai để tăng cường việc tiếp cận pháp lý đối với người dân, bảo đảm thủ tục tố tụng hình sự, quyền tiếp cận luật sư. Các hoạt động hợp tác quốc tế để nghiên cứu về vấn đề án tử hình, khả năng xem xét gia nhập Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước ICCPR về bãi bỏ án tử hình cũng được tiến hành hiệu quả với sự tham gia của giới học giả về pháp luật, các tổ chức phi chính phủ, các đối tác quốc tế và sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và các đối tác khác.
Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương24
Việt Nam tăng cường và đẩy mạnh triển khai thực hiện hiệu quả các Chương trình, Chiến lược cấp quốc gia, trong đó lồng ghép các nội dung nhằm ưu tiên giải quyết tình trạng dễ bị tổn thương và nhu cầu của phụ nữ, trẻ em và các nhóm dễ bị tổn thương25. Việt Nam là một trong 15 quốc gia đi đầu trong Liên minh toàn cầu 8.7 nhằm xóa bỏ lao động trẻ em phù hợp với Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG) 8.7. Việt Nam cũng đang tiếp tục triển khai Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Thanh niên và tích cực nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật về các vấn đề này.
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Bộ Y tế ban hành hướng dẫn tạm thời dự phòng và chăm sóc phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh, giúp các cơ sở sản khoa, cơ sở cách ly thực hiện tốt việc chăm sóc sức khoẻ cho phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh. Các tỉnh, thành phố sử dụng ngân sách, các nguồn vận động để kịp thời hỗ trợ dinh dưỡng, đồ dùng thiết yếu, thuốc và các vật phẩm y tế cho trẻ em gặp khó khăn; vận động các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, nhà hảo tâm hỗ trợ, chăm sóc và đỡ đầu trẻ em mồ côi cha mẹ do dịch bệnh.
Việt Nam cũng đã ban hành Chương trình Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác, sáng tạo và lành mạnh trên môi trường mạng giai đoạn 2020-2025 nhằm bảo vệ thông tin cá nhân, đời sống riêng tư của trẻ em; ngăn chặn, xử lý các hành vi lợi dụng môi trường mạng thực hiện các hành vi lạm dụng, xâm hại trẻ em.
Chương trình hỗ trợ hộ nghèo khu vực nông thôn tiếp tục được triển khai trên phạm vi toàn quốc. Tính đến tháng 5/2021, cả nước đã thực hiện hỗ trợ cho khoảng 117.624/236.477 hộ nghèo vay vốn làm nhà ở, với tổng số vốn cho vay khoảng 2.940,6 tỷ đồng (tương đương khoảng 130,3 triệu USD). Việt Nam đang nghiên cứu, xem xét tiếp tục ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo khu vực nông thôn theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2026. Việt Nam đã ban hành chính sách hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt trên địa bàn 14 tỉnh, thành phố ở miền trung; đến tháng 5/2021, có 19.350/21.600 hộ nghèo được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở phòng tránh bão, lụt (đạt 89,6%) với tổng số vốn đã giải ngân là 664,4 tỷ đồng (tương đương khoảng 22,4 triệu USD).
Việt Nam đã triển khai các đề án quan trọng nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số.26 Các đài phát thanh, truyền hình địa phương chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc miền núi, vùng cao thông qua việc tăng số lượng đài phát thanh và thời lượng phát sóng các chương trình nhiều thứ tiếng dân tộc; phản ánh các mặt hoạt động, nét văn hóa đặc trưng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số cũng như phong tục tập quán của các dân tộc Việt Nam. Đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn được cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, cấp phát miễn phí tờ rơi, tài liệu tuyên truyền kiến thức pháp luật.
Việc bảo đảm quyền tiếp cận phương tiện đi lại và xây dựng công trình thân thiện với người khuyết tật tiếp tục được chú trọng triển khai trên cơ sở các quy định tại Luật Xây dựng năm 2014, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Kiến trúc năm 2019. Người khuyết tật được tạo điều kiện tiếp cận các chính sách chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo nghề, việc làm; tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch, đi lại. Hàng triệu người khuyết tật, trẻ em khuyết tật được nuôi dưỡng, chăm sóc trong các cơ sở bảo trợ xã hội và 100% người khuyết tật nặng, người khuyết tật đặc biệt nặng được cấp thẻ bảo hiểm y tế, các cơ sở khám, chữa bệnh đều thực hiện ưu tiên đối với người khuyết tật.
Việt Nam đã tiếp tục các nỗ lực phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Theo thống kê từ năm 2015-2020, lực lượng chức năng đã phát hiện gần 1.300 vụ việc với gần 1.700 đối tượng có hành vi lừa bán gần 3.000 nạn nhân. Chương trình phòng, chống mua bán người của Chính phủ giai đoạn 2016-2020 đã được thực hiện hiệu quả, giảm trên 40% số vụ mua bán người so với giai đoạn trước. Bộ Công an đã ban hành Kế hoạch triển khai Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Việt Nam cũng đã tiếp tục triển khai có hiệu quả các bản ghi nhớ, hiệp định, kế hoạch hợp tác song phương đã ký về phòng chống mua bán người với các nước.
Thực hiện nghĩa vụ theo các công ước và triển khai các cam kết, hợp tác quốc tế khác liên quan đến quyền con người27
Việt Nam hiện đã tham gia 7/9 công ước quốc tế cơ bản về quyền con người. Việc triển khai các công ước đã đạt được những kết quả toàn diện, được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ bằng hành lang pháp lý và hệ thống chính sách đồng bộ.
Với việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về việc áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể (năm 2019) và Công ước số 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức (năm 2020), tính đến nay Việt Nam đã tham gia 25 Công ước quốc tế về quyền lao động của ILO, trong đó có 7/8 Công ước cơ bản. Năm 2019, Việt Nam cũng đã thông qua Bộ luật Lao động sửa đổivới nhiều quy định mới bảo đảm tốt hơn quyền của người lao động, tương thích với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, bao gồm các Công ước của ILO và Liên hợp quốc về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng như các hiệp định CPTPP và EVFTA. Việc nghiên cứu gia nhập Công ước số 87 của ILO về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức theo lộ trình đề ra tại Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện CPTPP, với mục tiêu trình gia nhập vào năm 2023.
Việt Nam đang nghiên cứu, xem xét khả năng gia nhập một số công ước quốc tế về quyền con người như Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ (CRMW), Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị mất tích cưỡng bức (CPED), Nghị định thư Công ước Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước số 97 của ILO về di cư vì việc làm và Công ước số 143 về lao động di cư trong giai đoạn 2026-2030, Công ước 1954 về quy chế người không quốc tịch, Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia…
Việt Nam đã nộp Báo cáo quốc gia lần thứ năm về việc thực thi Công ước CERD (tháng 01/2021); đã nộp Báo cáo giữa kỳ về việc thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban CAT vào tháng 10/2020 và Ủy ban Nhân quyền vào tháng 3/2021; đang xây dựng Báo cáo thực hiện Công ước CEDAW lần thứ 9.
Việt Nam luôn chủ trương coi trọng việc đối thoại, hợp tác với các nước, đối tác trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Tại các diễn đàn đa phương như Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, ASEAN, Việt Nam đã tích cực tham gia đóng góp vào quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, đề xuất các sáng kiến, hợp tác trao đổi với các nước, các cơ chế liên quan, được các nước ghi nhận, đánh giá cao. Ở cấp độ song phương, Việt Nam tiếp tục tiến hành các cuộc Đối thoại nhân quyền và trao đổi định kỳ về vấn đề nhân quyền với các đối tác quan tâm.
Trong năm 2020, với 112 nước đồng bảo trợ, Việt Nam đã lần đầu tiên đề xuất và thúc đẩy thông qua bằng đồng thuận nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc lấy ngày 27/12 hằng năm là Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh, đóng góp thiết thực vào nỗ lực chung của thế giới nhằm nâng cao nhận thức về sự cần thiết sẵn sàng ứng phó với dịch bệnh, đồng thời thể hiện cam kết mạnh mẽ về bảo đảm quyền con người với tư cách là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam tiếp tục tăng cường trao đổi, hợp tác với Liên hợp quốc và các Thủ tục đặc biệt trong các khóa họp thường kỳ của Hội đồng Nhân quyền cũng như thường xuyên có trả lời đối với các đề nghị cung cấp thông tin của các thủ tục đặc biệt. Việt Nam đã mời báo cáo viên đặc biệt về quyền phát triển vào thăm Việt Nam từ năm 2019, tuy nhiên, chuyến thăm chưa thực hiện được do điều kiện dịch bệnh.
Năm 2020, với vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR) với ưu tiên thúc đẩy quyền của nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch. Cùng các nước ASEAN, Việt Nam đã dẫn dắt, triển khai Quỹ ASEAN để ứng phó dịch Covid-19; xây dựng Quy chế hoạt động của Kho dự trữ vật tư y tế khu vực; hình thành Khung chiến lược ASEAN trong tình huống khẩn cấp y tế công cộng… để bảo đảm quyền, sức khỏe cho hơn 650 triệu người dân trong khu vực.
Việt Nam đã ban hành các biện pháp triển khai Luật Đặc xá năm 2018, có hiệu lực từ ngày 1/7/2019 trong đó có các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng, thực hiện quyền và lợi ích chính đáng đối với người chấp hành xong án phạt tù.
Dự kiến, năm 2023, Việt Nam sẽ đăng cai tổ chức Hội nghị cán bộ quản lý trại giam khu vực châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 43, trong đó sẽ triển khai hoạt động chia sẻ kinh nghiệm về Luật Đặc xá và tái hòa nhập cộng đồng.
Các dự án, chương trình hợp tác nâng cao năng lực kỹ thuật trong lĩnh vực quyền con người tiếp tục được Việt Nam và một số nước, đối tác phát triển trao đổi, xây dựng và triển khai; trong quá trình đó, sự tham gia của các cơ quan, địa phương và các bên liên quan luôn được bảo đảm.
Tăng cường giáo dục về quyền con người28
Việt Nam tích cực triển khai Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, xác định mục tiêu đến năm 2025, 100% các cơ sở giáo dục, đào tạo các cấp tổ chức giáo dục quyền con người cho người học; triển khai các hoạt động nghiên cứu về quyền con người; xây dựng các chương trình, kế hoạch nhằm tuyên truyền và phổ biến pháp luật về quyền con người tại các trung tâm nghiên cứu và cơ sở đào tạo chuyên sâu.
Giáo dục về quyền con người và Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) đã được lồng ghép trong sách giáo khoa giáo dục tiểu học; đồng thời, môn Giáo dục công dân trong chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 cũng đã lồng ghép các nội dung, chủ đề về quyền con người và quyền trẻ em trong giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống và pháp luật. Các kiến thức về quyền con người được gắn liền với bối cảnh sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với nhận thức xã hội của học sinh qua từng độ tuổi. Việt Nam cũng đang xây dựng tài liệu giáo dục quyền con người cho sinh viên các cơ sở giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục đẩy mạnh đào tạo kiến thức về quyền con người cho các cán bộ công chức, viên chức Nhà nước và địa phương nhằm tăng cường nhận thức, năng lực và hiệu quả ở cơ sở thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng.
Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Những thách thức và nhiệm vụ đặt ra
Trong quá trình triển khai các khuyến nghị UPR đã chấp thuận, Việt Nam cũng xác định một số khó khăn, thách thức kỹ thuật như một số khuyến nghị mang tính chất vĩ mô, liên ngành nên dẫn tới phân định trách nhiệm có phần còn bất cập; tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở còn hạn chế, có lúc, có nơi chưa bảo đảm yêu cầu trong tình hình mới. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan trong quá trình xây dựng các VBQPPL về quyền con người chưa thực sự bảo đảm kịp thời, chặt chẽ, làm kéo dài thời gian xây dựng và ảnh hưởng đến chất lượng VBQPPL. Để tháo gỡ những bất cập này, Việt Nam đang tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Dịch Covid-19 gây nên sự đứt gãy của các hoạt động kinh tế truyền thống đã tạo thêm khó khăn cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam; song đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, tự cường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số, cải cách thể chế, phát triển cơ cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ thành tựu của khoa học, công nghệ. Việc Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện chương trình Chuyển đổi số quốc gia sẽ góp phần xây dựng Chính phủ điện tử theo tôn chỉ “Chính phủ kiến tạo”, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong tiếp cận dịch vụ công; tăng cường minh bạch theo hướng “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, giám sát” hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục triển khai thực hiện các khuyến nghị UPR chu kỳ III đã chấp thuận và chuẩn bị cho việc xây dựng Báo cáo quốc gia tại Phiên UPR chu kỳ IV, dự kiến vào năm 2024. Trong thời gian tới, Việt Nam mong muốn và sẵn sàng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao năng lực trong việc xây dựng Báo cáo quốc gia và thực hiện các khuyến nghị UPR đã chấp thuận./.
Xuất bản ngày: 21/7/2022
Tổ chức thực hiện: PHONG ĐIỆP - CHÍ TRUNG
Nội dung: HÀ NHÂN
Trình bày: HOÀNG HÀ