Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được nhấn mạnh như một nhiệm vụ kinh tế để hiện thực hóa khát vọng phát triển của đất nước phù hợp bối cảnh thời đại. Bên cạnh đó, cũng không khó để nhận ra những yêu cầu cấp bách về nâng cao tính độc lập, tự chủ đang hiện hữu trong nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.

Lời giải cho
bài toán năng lượng

Khủng hoảng năng lượng đang diễn ra trên phạm vi khắp toàn cầu và Việt Nam cũng không thể tránh khỏi. Việt Nam là nước nhập khẩu ròng năng lượng từ năm 2015. Giá hàng loạt nhiên liệu như than đá, dầu mỏ, khí đốt liên tục tăng đột biến đang tạo áp lực lớn cản trở đà phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 của đất nước. Nghiêm trọng hơn, chúng ta còn phải đối mặt nguy cơ thiếu hụt các nguồn năng lượng thiết yếu như điện hay xăng dầu.

Năng lượng lại là yếu tố đầu vào quan trọng trong mọi hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của người dân. Việc giữ vững an ninh năng lượng là mục tiêu sống còn để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng chỉ rõ mục tiêu phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững. 

Nghịch lý vừa thừa, vừa thiếu

“Khuyến khích năng lượng tái tạo là đúng xu thế, nhưng phát triển quá nóng, thiếu đồng bộ cũng để lại rất nhiều băn khoăn”, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung nhận định khi nhìn lại quá trình bùng nổ của năng lượng tái tạo trong vài năm gần đây. 

Thực vậy, sau nhiều năm kêu gọi đầu tư không hiệu quả, nhưng sau khi Quyết định 11/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam được ban hành (ngày 11/4/2017), điện mặt trời đã có chu kỳ phát triển thần tốc và hiện đạt tổng công suất khoảng 16.500MWp (gồm 8.700MW nguồn điện mặt trời trang trại và 7.776MW nguồn điện mặt trời mái nhà), vượt khung 20 lần Quy hoạch điện VII điều chỉnh. 

Điện mặt trời có chu kỳ phát triển thần tốc và hiện đạt tổng công suất khoảng 16.500MWp.

Điện mặt trời có chu kỳ phát triển thần tốc và hiện đạt tổng công suất khoảng 16.500MWp.

Việt Nam nhờ đó nhanh chóng vươn lên vị trí thứ 8 trong tốp 10 quốc gia có công suất lắp đặt điện mặt trời lớn nhất thế giới (nguồn Visual Capitalist). Cộng thêm 3.890MW điện gió (cũng vượt quy hoạch gần 5 lần), hiện tỷ trọng các nguồn điện năng lượng tái tạo chiếm tới 27% tổng công suất phát cả nước.

Gia tăng đột biến, cộng thêm những hạn chế như tính bất định cao trong vận hành, phân bố chưa phù hợp,… sự bùng nổ của điện năng lượng tái tạo đã gây mất cân bằng cung-cầu miền, tạo sức ép lên lưới truyền tải liên miền (từ miền trung, miền nam ra miền bắc), gây lãng phí, tổn thất và rủi ro vận hành an toàn. 

Tình trạng thừa nguồn làm quá tải đường dây hay chênh lệch giữa cao điểm và thấp điểm gây thiếu dự phòng công suất, dẫn đến hệ quả điện năng lượng tái tạo thường xuyên bị giảm phát nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong năm 2020, sản lượng không khai thác được của điện mặt trời khoảng 364 triệu kWh. Năm 2021, sản lượng điện “thừa” từ năng lượng tái tạo tiếp tục tăng vọt, theo một số công bố khoảng 1,68 tỷ kWh, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều. 

Nghịch lý hơn, trong bối cảnh điện năng lượng tái tạo “thừa” phải cắt giảm, tổng công suất lắp đặt nguồn điện của Việt Nam cũng tăng hơn 145% trong vòng 5 năm từ 2017 đến nay (42.000MW lên 76.620MW), nhưng EVN vẫn cảnh báo khả năng thiếu điện của miền bắc khoảng 1.500-2.400MW trong một số giờ cao điểm hoặc thời tiết cực đoan.

Đồng tình việc khuyến khích điện năng lượng tái tạo là hướng đi đúng để phát triển kinh tế xanh, tuy nhiên Viện sĩ, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long cũng nhấn mạnh tính thiếu ổn định của các nguồn phát cùng yêu cầu bắt buộc phải có các nguồn điện nền khác đi kèm. Trong Quy hoạch điện VIII đã tính đến việc cân đối thêm các nguồn phát nền cũng như tìm ra tỷ lệ phù hợp hơn cho năng lượng tái tạo để vừa đạt mục tiêu giảm phát thải carbon, vừa bảo đảm cân bằng cung cầu và an toàn vận hành hệ thống. 

Bên cạnh đó, cũng cần xử lý hài hòa hơn mối quan hệ giữa điện năng lượng tái tạo và các nguồn điện truyền thống. Thí dụ, khi điện mặt trời đạt công suất phát cao sẽ giảm thủy điện để tích nước, lúc không còn nắng lại xả nước để phát điện. Ngoài ra, cần khuyến khích phát triển thủy điện tích năng để phối hợp điện mặt trời hình thành hệ thống tuần hoàn khép kín. Giá của loại điện này dù đắt hơn thủy điện thông thường, nhưng vẫn rẻ hơn điện than hay tích điện bằng pin. 

Đặc biệt, thủy điện tích năng không cần nguồn thủy lực lớn, do đó có thể xây dựng ở nhiều địa điểm và kể cả bên bờ biển. Cũng theo ông Long, kế hoạch phát triển điện hạt nhân tiếp tục được đưa vào Quy hoạch điện VIII nhằm bảo đảm có thêm các nguồn phát nền rẻ và ổn định. Thực tế, thế giới đang có xu thế quay lại coi trọng điện hạt nhân vì đây được coi là nguồn điện sạch, tương đối an toàn do công nghệ cũng như quy trình quản lý ngày càng hoàn thiện, khả năng xảy ra thảm họa là hy hữu. Thậm chí, trong giai đoạn điện hạt nhân bị lên án mạnh mẽ trước đây, nhiều quốc gia vẫn âm thầm phát triển và coi đây là hướng đi khó thay đổi. 

Cách mạng năng lượng mới

Chưa dừng ở chuyện thiếu điện, từ tháng 1 đến nay, nguồn cung xăng dầu trong nước cũng liên tục phải đối mặt nguy cơ đứt gãy khi Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn đột ngột cắt giảm công suất và ra thông báo ngừng cung cấp sản phẩm trong một khoảng thời gian với lý do thiếu tiền nhập nguyên liệu.

Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.

Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn.

Với tổng vốn đầu tư hơn 9 tỷ USD, công suất đạt 8,4 triệu tấn dầu thô trong giai đoạn đầu và có thể dần nâng lên 10 triệu tấn dầu thô/năm, Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn từng được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam tự chủ nguồn cung xăng dầu. Trong năm 2021, nhà máy này đã sản xuất được 6,7 triệu tấn xăng dầu các loại, giúp giải quyết một phần nhu cầu nội địa (khoảng 34%).

Nhưng vừa bước sang năm 2022, cách hành xử kiểu “ao làng” của nhà máy khi tự ý cắt giảm nguồn cung không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, mà còn gây tác động xấu tới thị trường và rộng hơn là kìm hãm đà hồi phục của nền kinh tế.

Đến hiện tại, dù Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn vẫn luôn “úp mở” việc công bố mức sản xuất, nhờ nỗ lực của cơ quan quản lý và doanh nghiệp nhập khẩu, nguồn cung xăng dầu sáu tháng đầu năm cơ bản đã được đáp ứng đủ. Tuy nhiên, nguy cơ thiếu xăng dầu vẫn chờ chực bởi Việt Nam chưa chủ động được nguồn cung.

Theo đó, kể cả khi Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn không tự ý cắt giảm công suất, cộng thêm sản lượng khoảng 7 triệu tấn/năm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Việt Nam mới tự sản xuất được khoảng 2/3 tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước và phần còn lại vẫn phải bù bằng nguồn nhập khẩu. Chính phủ vừa qua đã chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) nhanh chóng triển khai nghiên cứu, đầu tư xây dựng Tổ hợp dự án lọc hóa dầu mới tại Khu công nghiệp Dầu khí Long Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu) với kỳ vọng có thêm 10 triệu tấn xăng dầu/năm để chủ động hoàn toàn nguồn cung trong nước. Thế nhưng không ít chuyên gia lại cho rằng, cần xem xét kỹ hơn kế hoạch này. Vì hiện khai thác dầu thô trong nước chỉ đáp ứng được một phần cho sản xuất xăng dầu nội địa và sản lượng ngày càng giảm, nên dù xây thêm nhà máy lọc dầu, Việt Nam vẫn phải lệ thuộc vào nguồn dầu thô nhập khẩu.

 

Rõ ràng, đây là một bài toán lớn, cần được tính toán chi tiết với nhiều tham số như dự báo trữ lượng dầu trong nước, sản lượng khai thác trong ngắn và dài hạn, xu hướng thị trường thế giới,… từ đó làm rõ việc nhập khẩu trực tiếp xăng dầu hay nhập dầu thô về chế biến là có lợi?

Riêng chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh vẫn không đồng tình với phương án xây dựng nhà máy lọc dầu mới trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn như hiện nay vì tốn kém, lại không kỳ vọng giải quyết rốt ráo vấn đề chủ động nguồn cung xăng dầu. “Chúng ta nên dành nguồn lực đầu tư các cơ sở dự trữ xăng dầu để khi xảy ra biến động nguồn cung sẽ có đủ dự trữ cùng thời gian để ứng phó”, ông Ánh kiến nghị.

Theo Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN Hoàng Quốc Vượng, việc tăng cường dự trữ xăng dầu quốc gia là cần thiết, nhất là khi có những bất ổn trên thế giới ảnh hưởng xấu đến nguồn cung xăng dầu. Tất nhiên, tăng dự trữ cũng dẫn đến tăng chi phí, nhưng cần xem xét trên tổng thể lợi ích quốc gia. Việc tăng dự trữ cần sớm được tổ chức phân tích, đánh giá để có thể điều chỉnh mục tiêu về mức dự trữ cũng như có cơ chế, chính sách phù hợp.

Nguồn dự trữ xăng dầu quốc gia của Việt Nam so với nhiều nước khác như Mỹ hay Nhật Bản còn mỏng. Bộ Công thương đã xây dựng để trình Chính phủ đề án nâng mức dự trữ xăng dầu quốc gia, dự kiến khoảng gấp bốn lần mức quy định hiện hành.
Nguyễn Thúy Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Công thương)

Ở tầm nhìn chiến lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần phát động một cuộc cách mạng năng lượng mới. Nhiều nghiên cứu chỉ ra, trong tương lai không xa, năng lượng hydro sẽ dần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt để hình thành “nền kinh tế hydro”. Không những là nguồn nhiên liệu sạch, hydro còn là nguyên liệu quan trọng cho nhiều lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế phát thải carbon thấp.

Bloomberg dự báo, tiêu thụ hydro sẽ tăng nhanh để đáp ứng tới 24% tổng nhu cầu năng lượng toàn thế giới vào năm 2050. Một thị trường hydro hình thành ở quy mô lớn sẽ tạo ra doanh thu khoảng 2.500 tỷ USD và 30 triệu việc làm. Đến nay, hơn 30 quốc gia đã xây dựng chiến lược phát triển hydro, 15 quốc gia đã ban hành chính sách thúc đẩy việc sản xuất, phát triển hạ tầng và sử dụng hydro nhằm đón đầu cơ hội.

Tiến lên nấc thang cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Hơn hai năm trôi qua với hàng loạt tác động từ đại dịch Covid-19, xung đột Nga-Ukraine và hiện là chiến lược "zero Covid" của Trung Quốc đã khiến chuỗi cung ứng toàn cầu liên tục đứt gãy. Là nước có nền kinh tế với độ mở cao, Việt Nam phải gánh chịu không ít ảnh hưởng nặng nề từ những biến động này. Tuy nhiên, chúng ta cũng đứng trước cơ hội nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng đang buộc phải dịch chuyển để dần thích ứng với tình hình mới.

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay, bất kỳ quốc gia nào cũng đều phụ thuộc ít nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu. Những nước càng phát triển như Mỹ hay châu Âu, càng phải chịu tác động lớn khi chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy. Tuy nhiên, với vai trò làm chủ chuỗi giá trị và là người đưa ra luật chơi, các quốc gia này có thể nhanh chóng xoay chuyển, thậm chí chủ động xây dựng lại chuỗi cung ứng mới. Như vậy, phải chăng hướng đi cho Việt Nam để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ cũng là nỗ lực vươn lên để làm chủ các chuỗi giá trị?

Nền sản xuất phụ thuộc

Phát biểu trước đông đảo đại biểu tham dự Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ 4 được tổ chức ngày 5/6/2022 tại thành phố Hồ Chí Minh-diễn đàn mang tầm cỡ quốc gia đầu tiên bàn về "kinh tế độc lập, tự chủ", Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh thẳng thắn thừa nhận năng lực tự chủ của các ngành sản xuất của Việt Nam còn ở mức thấp với việc phải nhập khẩu hầu hết công nghệ, máy móc thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu chính.

Làm rõ hơn, đồng chí Trần Tuấn Anh đã dẫn chứng hàng loạt con số "biết nói". Đó là Việt Nam mỗi năm phải nhập siêu tới 9,3 triệu tấn thép cuộn cán nóng và 85,4% tổng nhu cầu sơ xợi trong nước. Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu nhập khẩu, với da giày là khoảng 45% và sản xuất nhựa lên tới 80%. Thậm chí, thế mạnh truyền thống của Việt Nam là nông nghiệp cũng phải nhập khẩu hơn 70% máy móc, thiết bị; 80% giống rau và 60% giống ngô;…

Chuỗi cung ứng toàn cầu vừa chớm hồi phục lại một lần nữa đứt gãy. Ngành công nghiệp trong nước ngay lập tức gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo đảm các yếu tố đầu vào sản xuất. Như dệt may là ngành đang có cơ hội hồi phục nhanh nhờ lượng đơn hàng về ồ ạt, nhưng giờ đây chính điều đó lại khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh "khóc dở, mếu dở" vì thiếu nguyên phụ liệu sản xuất.

Giám đốc điều hành Tổng công ty May Đáp Cầu Nguyễn Đức Thăng chia sẻ, phụ thuộc đến 80% vào nguồn cung nguyên phụ liệu từ Trung Quốc nên trong bối cảnh nguyên phụ liệu về nhỏ giọt, đơn vị phải xé lẻ, rải đơn hàng ra nhiều tổ sản xuất nhằm bảo đảm việc làm cho công nhân, năng suất lao động tụt giảm mạnh. Đáng lo hơn, hiện nhiều đơn hàng vẫn thiếu nguyên liệu, công ty dù đã đàm phán với khách hàng để gia hạn thời gian giao hàng nhưng không thể kéo dài được lâu, việc thanh toán đang tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Các ngành da giày, cơ khí, điện tử, ô-tô,… cũng đều gặp khó khăn do phụ thuộc vào nguyên phụ liệu Trung Quốc. Theo thống kê của Bộ Công thương, 89% tổng kim ngạch nhập khẩu trong 5 tháng đầu năm nay là hàng nguyên phụ liệu cho sản xuất trong nước và Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 49,6 tỷ USD, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước cũng như chiếm tới 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu.

Để thoát khỏi tình trạng "thị trường Trung Quốc hắt hơi, doanh nghiệp bị sổ mũi", một số doanh nghiệp đã chủ động xây dựng, phát triển nguồn nguyên liệu và xây dựng chuỗi sản xuất khép kín. Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) Lê Tiến Trường cho biết, Vinatex đã và đang đầu tư theo chuỗi để nâng cao sự chủ động nguồn cung phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, đây là giải pháp chỉ số ít các đơn vị lớn, tiềm lực mạnh mới làm được. Còn với phần lớn doanh nghiệp, theo các chuyên gia cần tiếp tục kiên trì chiến lược đa dạng hóa nguồn cung nguyên phụ liệu, hạn chế phụ thuộc vào một thị trường đơn nhất để từ đó nâng cao tính tự chủ trong sản xuất.

Cơ hội nâng cao vị thế

Cùng ngành dệt may nhưng hoạt động sản xuất của Công ty cổ phần Đầu tư quốc tế Thagaco vẫn luôn duy trì tương đối ổn định kể cả khi chuỗi cung ứng nhiều lần đứt gãy. Chìa khóa của thành công, theo Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Nguyễn Văn Quân là nhờ xây dựng được mạng lưới nhà cung cấp rất đa dạng. Đi vào hoạt động chưa đầy ba năm, nhưng ngay từ ban đầu, Thagaco đã định hướng tập trung vào đơn hàng FOB thay vì gia công.

Do đó, đơn vị đến nay đã chuyển mình thành công, nâng quy mô làm FOB chiếm 70% doanh thu. Mặt khác, Thagaco cũng luôn chủ động tìm kiếm nguồn nguyên phụ liệu từ nhiều thị trường ngoài Trung Quốc như Ấn Độ, Hàn Quốc và đặc biệt 30% từ trong nước. Nhờ vậy, khi dòng hàng từ Trung Quốc bị gián đoạn như hiện nay, công ty cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi có sẵn các nguồn cung khác với giá cạnh tranh và thời gian giao hàng nhanh không kém.

Tuy nhiên, không nhiều doanh nghiệp có thể làm được như Thagaco. Là doanh nghiệp dệt may lớn, kinh nghiệm xuất khẩu lâu năm, đồng thời sở hữu mạng lưới khoảng 600 nhà cung cấp nguyên liệu khắp toàn thế giới, nhưng Tổng công ty May 10 còn phụ thuộc tới 50% nguồn hàng từ Trung Quốc nên vẫn gặp cảnh lao đao khi thị trường này nghẽn hàng. Tổng giám đốc May 10 Thân Đức Việt cho biết, đơn vị đang xây dựng kế hoạch nâng tỷ trọng nguồn cung từ các đối tác khác như Ấn Độ, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc nhằm hạn chế các rủi ro như hiện nay nhưng dự kiến quá trình này phải mất 5 đến 10 năm. Vì vậy, rất cần cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp trong lĩnh vực này là Bộ Công thương triển khai mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động cung cấp thông tin, kết nối cung cầu, tăng cường mở rộng các thị trường mới, giúp doanh nghiệp tránh phụ thuộc hoàn toàn vào số ít thị trường cả ở chiều nhập và xuất khẩu.

Theo các chuyên gia lĩnh vực công nghiệp, chiến lược trọng tâm của Việt Nam lúc này là tham gia sâu hơn để trở thành "mắt xích không thể thiếu" trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo các chuyên gia lĩnh vực công nghiệp, chiến lược trọng tâm của Việt Nam lúc này là tham gia sâu hơn để trở thành "mắt xích không thể thiếu" trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo nhiều nghiên cứu, các nước phát triển có khả năng tự chủ kinh tế cao là do nắm giữ các chuỗi giá trị. Đây cũng là mục tiêu Việt Nam cần hướng tới để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Tuy nhiên, với tiềm lực hiện hữu, chúng ta khó có thể đạt được điều này trong ngắn hạn. Theo các chuyên gia lĩnh vực công nghiệp, chiến lược trọng tâm của Việt Nam lúc này là tham gia sâu hơn để trở thành "mắt xích không thể thiếu" trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đặc biệt, cơ hội đã đến trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang có sự dịch chuyển mạnh mẽ.

Bắt đầu từ xung đột thương mại Mỹ-Trung Quốc khi các quốc gia tìm cách giảm dần sự phụ thuộc vào Trung Quốc, tiếp đến là đại dịch Covid-19 được coi như nhân tố kích thích, giúp quá trình này diễn ra nhanh hơn nhằm phân tán và giảm rủi ro. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng sẽ kéo theo dịch chuyển đầu tư, qua đó định hình lại các chuỗi giá trị. Việt Nam với vị trí địa lý thuận lợi, tình hình kinh tế-chính trị ổn định được đánh giá có nhiều lợi thế để đón đầu dòng dịch chuyển này.

Khi chúng tôi đang tìm kiếm tư liệu cho bài viết này, có thông tin cho biết một số hãng ô-tô của Nhật Bản, Hàn Quốc đang lên kế hoạch nâng cấp Việt Nam trong chuỗi giá trị của họ. Chúng ta đang ở cấp 4, cấp 5, nhưng sắp tới sẽ tiến lên cấp 2 và thậm chí tiến cao hơn nữa trong chuỗi giá trị của các hãng ô-tô lớn. Việt Nam đang có cơ hội lớn để tiến lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, quan trọng là phải tận dụng hiệu quả thời cơ trước mắt và giải pháp trọng tâm, theo Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Ngô Khải Hoàn, phải phát triển công nghiệp hỗ trợ để từng bước tự chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước; từ đó, nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt. Không những vậy, đây còn là "thỏi nam châm" hấp thu khoa học-công nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến từ khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) để biến thành động lực giúp nâng cao năng lực sản xuất trong nước, khẳng định vững chắc hơn vị thế trong các chuỗi giá trị. Trên thế giới, không ít quốc gia, vùng lãnh thổ đã thành công đi lên từ công nghiệp hỗ trợ để giờ đây nắm giữ chuỗi cung ứng, điển hình là Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc).

Sự thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế, nhất là việc mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ sau năm 1978 là chính sách quan trọng nhất thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô-tô của Trung Quốc.

Quốc gia này đã nhanh chóng dỡ bỏ các rào cản, ban hành các chính sách thông thoáng thu hút FDI vào ngành công nghiệp ô-tô. Nhờ đó, hầu hết các hãng ô-tô lớn trên thế giới đã có mặt tại Trung Quốc như Volkswagen của Đức, GM và Ford của Mỹ, Toyota của Nhật Bản và Peugeot - Citroen hay Fiat của châu Âu. Đây được xem là bước ngoặt trong phát triển công nghiệp ô-tô Trung Quốc.

Sau đó, để tiếp tục tăng cường sức cạnh tranh  cho ngành công nghiệp ô-tô trong nước, Trung Quốc đã có nhiều điều chỉnh chính  sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi và ưu tiên thu hút FDI vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô-tô. Kết quả, hiện Trung Quốc là nước sản xuất ô-tô và phương tiện thương mại đứng đầu thế giới, chiếm khoảng 25,4% thị trường ô-tô và phương tiện thương mại toàn cầu, trong đó khoảng 20% là các hãng nội địa.

(Nguồn: Bộ Công thương)

Nhằm đẩy nhanh quá trình hấp thu ngoại lực của công nghiệp hỗ trợ, cần xem lại cách ứng xử với khu vực FDI. Theo nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm, mục tiêu quan trọng nhất của thu hút vốn ngoại là tạo hiệu ứng lan tỏa, nhưng sự liên kết, tương tác giữa FDI với khu vực kinh tế trong nước đến nay vẫn thiếu chặt chẽ, sức lan tỏa về năng suất và công nghệ hạn chế. Các dự án FDI cũng chưa đóng góp nhiều vào việc gắn kết nền kinh tế trong nước với chuỗi cung ứng toàn cầu. Do đó, song song với việc trao cơ hội đầu tư, cần có những điều kiện đi kèm để thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ cũng như thắt chặt hơn mối liên kết giữa dòng vốn ngoại với khu vực trong nước, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Ở chiều ngược lại, công nghiệp hỗ trợ phát triển cũng là yếu tố quan trọng để giữ chân FDI. Dòng vốn ngoại sẽ chỉ gắn bó lâu dài ở nơi có hệ thống cung ứng nội địa hoàn thiện, giúp họ giảm phụ thuộc vào các nguồn nhập khẩu với chi phí cao cũng như hạn chế ảnh hưởng từ các biến động bên ngoài.

Nâng cao sức chống chịu của thị trường tài chính

Kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phục hồi và từng bước trở lại đà tăng trưởng cao trong bối cảnh bình thường mới, song đây là chặng đường đầy khó khăn, thách thức với rủi ro bất ổn vĩ mô và tài chính đang ngày một gia tăng. Nếu không “trấn giữ” tốt và có giải pháp tăng khả năng chống chịu của thị trường tài chính, hậu quả sẽ không dừng lại ở việc chuyển hóa rủi ro của thị trường này vào nền kinh tế thực mà nguy hiểm hơn, chúng ta sẽ không còn “tấm khiên” tài chính đủ vững chắc để chủ động chống đỡ  các cú sốc từ bên ngoài.

Do sự đứt gãy của chuỗi cung ứng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong hai năm đại dịch Covid-19 sụt giảm so với mục tiêu đề ra, nhưng nghịch lý là tăng trưởng tín dụng lại giảm không đáng kể. Thực tế này làm dấy lên mối quan ngại về khả năng dòng tiền lớn từ hệ thống ngân hàng bơm ra đã không đi vào sản xuất mà được dùng để đảo nợ hoặc chảy vào các kênh đầu cơ, ảnh hưởng đến mục tiêu duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.

Nguy cơ từ cổ phiếu, trái phiếu rác

Thị trường vốn đang tiềm ẩn đầy rủi ro khi tăng trưởng quá nóng. Rủi ro lớn nhất hiện nay nằm ở thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 2017, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp mới đạt hơn 4% GDP nhưng đến quý I/2022 đã tăng lên 18,2% GDP (tương đương gần 51 tỷ USD), tiến sát ngưỡng mục tiêu 20% GDP đặt ra cho nhiệm vụ phát triển thị trường đến năm 2025.

Những bất cập cả về chất lượng hàng hóa và chất lượng nhà đầu tư cũng bộc lộ trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp do tăng trưởng quá nóng: Gần 80% giá trị phát hành trái phiếu thuộc về các doanh nghiệp chưa niêm yết, có năng lực tài chính yếu, tính minh bạch rất kém, không xếp hạng tín nhiệm, không bảo lãnh thanh toán, không tài sản bảo đảm, không có năng lực tài chính tốt, sử dụng dòng vốn không đúng mục đích,…

Thị trường vốn đang tiềm ẩn đầy rủi ro khi tăng trưởng quá nóng.

Thị trường vốn đang tiềm ẩn đầy rủi ro khi tăng trưởng quá nóng.

Lợi dụng kẽ hở pháp luật, một đại gia có thể thông qua mạng lưới các doanh nghiệp, ngân hàng, công ty chứng khoán hoặc bắt tay với đối tác thiết lập liên minh ba bên để phát hành trái phiếu không giới hạn và phân phối đến nhà đầu tư cá nhân không chuyên nghiệp thông qua hình thức hợp đồng hợp tác đầu tư. Chưa hết, công cụ nợ cao cấp này còn được bán tràn lan đến các nhà đầu tư nhỏ lẻ qua các cuộc gọi rác, tin nhắn rác, thư điện tử và “chợ” online trên Facebook, Zalo,… với sự thổi phồng về lợi nhuận, mập mờ tài sản bảo đảm hay tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành.

Vì vậy, hàng trăm nghìn nhà đầu tư “tay mơ” vẫn ồ ạt lao vào thị trường khiến dòng tiền cuồn cuộn đổ vào trái phiếu doanh nghiệp. Chỉ sau ba năm thăng hoa, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện đã cân bằng với quy mô tín dụng, nhưng tăng trưởng không bền vững. 

Tương tự, thị trường chứng khoán cũng phát triển nhanh nhưng chưa bền vững. Số lượng nhà đầu tư mới (F0), không chuyên tham gia thị trường tăng kỷ lục, chiếm gần 99% tổng số tài khoản đầu tư. Nhiều mã cổ phiếu tăng giá hàng trăm phần trăm ròng rã nhiều phiên giao dịch, không phản ánh đúng kết quả sản xuất, kinh doanh của công ty niêm yết. Sau động thái thanh lọc thị trường bằng việc khởi tố các cá nhân vi phạm phát luật tại Tập đoàn FLC, Louis Holdings và Tân Hoàng Minh, thị trường chứng khoán lập tức có mức giảm điểm mạnh. Thị trường trái phiếu cũng không ghi nhận đợt phát hành nào của doanh nghiệp bất động sản trong tháng 4/2022.

Thách thức duy trì ổn định
kinh tế vĩ mô

Một rủi ro khác trên thị trường tài chính tiền tệ được Tiến sĩ Cấn Văn Lực cùng Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nhận diện là tội phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đang gia tăng.

Gần đây, nổi lên nhiều hiện tượng lừa đảo qua huy động vốn đa cấp, ví điện tử, sàn giao dịch tiền ảo, cho vay nặng lãi trên nền tảng số, lừa đảo qua các trung gian hoạt động không phép,… Trong khi đó, công tác phòng ngừa và trấn áp tội phạm ở lĩnh vực tài chính ngân hàng tuy có nhiều chuyển biến, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trước sự phát triển của thị trường và còn nhiều lỗ hổng bảo mật chưa được khắc phục.

Vì vậy, cần có sự tăng cường ứng dụng công nghệ và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, tổ chức tài chính, doanh nghiệp ở thị trường trong nước và quốc tế trong cảnh báo, phòng ngừa, ứng phó loại hình tội phạm phức tạp, tinh vi này. Khác với giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, quy mô thị trường tài chính Việt Nam hiện đã tương đương khoảng 304% GDP nên tác động của các cú sốc từ bên ngoài dội vào là không nhỏ, các rủi ro không loại trừ lẫn nhau có thể cùng tác động vào nhiều lĩnh vực và có tính lan truyền.

Tiến sĩ Cấn Văn Lực cho biết, kết quả nghiên cứu gần 395 cuộc khủng hoảng tài chính trong giai đoạn 1970 - 2007 của các tổ chức nghiên cứu uy tín thế giới đã chỉ ra 7 dấu hiệu rủi ro bất ổn tài chính đặc trưng. Đó là nợ quốc gia và thâm hụt ngân sách tăng nhanh; nguy cơ đảo chiều hoặc giảm sút của dòng vốn bên ngoài; thị trường chứng khoán và bất động sản giảm mạnh; đồng nội tệ mất giá mạnh và đột ngột buộc phải phá giá; nợ xấu tăng nhanh, vốn của ngân hàng thương mại bị xói mòn, hệ thống ngân hàng yếu kém, khả năng chống đỡ yếu; thể chế, chính sách không theo kịp sự phát triển của thị trường tài chính và cuối cùng là tội phạm tài chính ngày càng gia tăng.

Vận dụng các chỉ tiêu này để đo sức khỏe thị trường tài chính trong nước, Tiến sĩ Cấn Văn Lực và các cộng sự đánh giá Việt Nam đang ở mức trung bình khá để có thể chống chịu, ứng phó các cú sốc bên ngoài. Song cần hết sức lưu ý, các khu vực tài chính có sực chịu đựng trung bình luôn tiềm ẩn nguy cơ chuyển sang trạng thái báo động hơn nếu thiếu biện pháp kiểm soát kịp thời, hiệu quả. Hơn nữa, quy mô tín dụng ngày càng lớn nhưng phần đông dân số hiện không có đủ kiến thức để hiểu về sản phẩm tài chính cũng như rủi ro liên quan; không biết lập kế hoạch ngân sách cho tương lai và không thực hiện hiệu quả quyết định quản lý tài chính của mình. Do đó, cần xây dựng chiến lược quốc gia về giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức của công chúng về các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, hạn chế rủi ro cho người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính, đẩy lùi tín dụng đen,…

Thế hệ những người làm công tác nghiên cứu, tham mưu xây dựng chính sách như ông Thành đã chứng kiến nhiều giai đoạn thăng trầm của  kinh tế đất nước, nhưng ông thừa nhận tình thế chưa bao giờ đặc biệt khó khăn như thời điểm này bởi những rủi ro đan xen, lan truyền ở cấp độ quan hệ giữa các đối tác thương mại quốc tế và giữa các lĩnh vực trong nền kinh tế. Theo ông Thành, bài học đầu tiên cho Việt Nam để tăng khả năng chống chịu là giữ cho được ổn định kinh tế vĩ mô cũng như sự lành mạnh của hệ thống tài chính, đi cùng với cải cách, giám sát, vận dụng tốt chính sách tài khóa, tiền tệ, làm đệm đỡ giảm tác động của các cú sốc. Cũng cần lưu ý, trong phản ứng của các thị trường, phản ứng của thị trường tài chính là nhanh nhất và giá của tài sản tài chính chính là tỷ giá và lãi suất, lạm phát. Do đó, phải hết sức chú ý trong phối hợp chính sách tài khoá, tiền tệ, không chỉ là tuân thủ nguyên tắc mà còn phải có nghệ thuật.

Trỗi dậy trong trật tự kinh tế toàn cầu mới

Kinh tế thế giới rơi vào vòng xoáy chưa có hồi kết với đỉnh điểm là xung đột ở Ukraine bất ngờ nổ ra giữa lúc nhân loại vẫn dốc sức chống chọi đại dịch Covid-19. Trong một thế giới ngày càng bất định, Việt Nam nổi lên như một địa chỉ tin cậy nhờ khả năng duy trì ổn định chính trị, ổn định nền tảng kinh tế vĩ mô. Đây là thời cơ để chúng ta quyết liệt, tự tin đẩy nhanh tiến trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thế và lực của đất nước như mục tiêu, tầm nhìn đặt ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Có mặt tại hội nghị thu hút đầu tư vào thành phố Hồ Chí Minh tháng 8/2020 - thời điểm đại dịch Covid-19 bắt đầu “gây sát thương” lớn cho nhiều nền kinh tế thế giới, Tổng giám đốc Công ty TNHH Intel Products Việt Nam (IPV), ông Kim Huat Ooi vui mừng thông báo mặc dù chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu đứt gãy do đại dịch, khối lượng sản xuất của Intel Việt Nam vẫn tăng 30%, đóng góp vào 75% tổng khối lượng sản xuất chung của tập đoàn. Ông Kim Huat Ooi nhắc lại câu chuyện 15 năm trước khi Intel phải cân nhắc giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan để cuối cùng quyết định chọn Việt Nam và nhấn mạnh: “Việc chúng tôi đến Việt Nam đầu tư và hoạt động đã là một thành công cực kỳ lớn”.

Vịnh tránh bão trong cơn biển động

Dòng đầu tư của Intel thời kỳ đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở đường cho Samsung và các tập đoàn công nghệ cao của thế giới vào Việt Nam, góp phần xây dựng thành công nền kinh tế định hướng xuất khẩu. Trong xu hướng dịch chuyển đầu tư toàn cầu vì đại dịch, Intel, Samsung, LG… vẫn tiếp tục tăng vốn mở rộng đầu tư ở Việt Nam bên cạnh nhiều dự án tỷ USD mới từ những tên tuổi lớn khác. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đã đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư Việt Nam. Những chính sách kịp thời của Chính phủ trong công tác phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế đã củng cố niềm tin đó, giữ dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam không sụt giảm mạnh trong biến động chung toàn cầu.

Việt Nam như một vịnh tránh bão trong cơn biển động” để nói về vị thế đặc biệt của nền kinh tế trong một thế giới đầy rủi ro, bất trắc. “Đây là lần đầu tiên trong 20 năm, cả thế giới có sự suy giảm nhưng Việt Nam vẫn giữ được ổn định vĩ mô, vẫn vững vàng dù tất các cú sốc bên ngoài đều dội vào. Chứng tỏ chúng ta đã có sự chủ động và khả năng chống chịu của nền kinh tế đã tốt hơn”.
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc Trường Chính sách công và quản lý (Đại học Fulbright) 

Nhưng đồng tiền có hai mặt. Sự phát triển không đồng tốc giữa FDI và khu vực trong nước dẫn đến rủi ro nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào vốn ngoại, trở thành vấn đề cần giải quyết cấp bách để tăng tính tự chủ của nền kinh tế. Quý I/2017, sự cố lỗi pin của sản phẩm điện thoại Samsung Galaxy Note 7 đã khiến kim ngạch xuất khẩu điện thoại và linh kiện của cả nước lần đầu tiên tăng trưởng âm hơn 10%, kéo giảm mức tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, tăng trưởng GDP chỉ đạt 5,1%. Quý III/2017, Samsung Việt Nam đưa sản phẩm Samsung Galaxy Note 8 bán ra thị trường và nhà máy thép Formosa khắc phục xong sự cố môi trường, đi vào hoạt động, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo lần đầu tiên tăng trưởng 12,77%, có tác dụng làm GDP tăng trưởng đột phá 7,46% và 7,65% trong hai quý còn lại. GDP tăng trưởng trồi sụt theo hoạt động sản xuất của doanh nghiệp FDI lớn và những người làm công tác thông kê cũng thừa nhận, chưa bao giờ dữ liệu kinh tế lại ghi nhận sự biến động bất thường như năm 2017. Tỷ lệ đóng góp của Samsung và Formosa vào mức tăng chung của giá trị sản xuất công nghiệp Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2017 là 46%, đến cùng kỳ năm 2018 chỉ còn 28%.

Bên cạnh đó là những hạn chế nội tại của nền kinh tế như độ mở kinh tế cao, xuất khẩu phụ thuộc một số thị trường lớn, tăng trưởng GDP có xu hướng đi vào chu kỳ giảm, thị trường tài chính đối mặt với nhiều rủi ro, kéo theo nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô… Đó là những vấn đề vừa cơ bản, dài hạn, vừa mang tính thời sự trước tác động của đại dịch Covid-19 và xung đột tại Ukraine, đòi hỏi các nhà hoạt định chính sách cùng lúc phải có giải pháp ứng phó ngay trong ngắn hạn và giải pháp ở tầm chiến lược lâu dài. Lời giải cho bài toán này là đẩy nhanh hơn, quyết liệt hơn, hiệu quả hơn việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng. Những bước đi cụ thể đã được đặt ra trong chương trình hành động của Chính phủ về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, gắn với mục tiêu tổng quát tạo bứt phá về năng lực cạnh tranh của một số ngành kinh tế chủ lực, nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng, sức chống chịu của nền kinh tế. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ là lực lượng nòng cốt trong quá trình cơ cấu lại kinh tế, đến năm 2025 phấn đấu có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó có 60-70 nghìn doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, tỷ trọng đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%, ít nhất có 5-10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế.

Quan trọng hơn, Chính phủ đã đề ra các giải pháp cụ thể nhằm thiết lập được sự kết nối doanh nghiệp giữa các thành phần kinh tế trên cơ sở cơ cấu lại và phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước cùng với phát triển doanh nghiệp tư nhân gắn với chuyển đổi số và phát huy vai trò của khu vực doanh nghiệp FDI bằng cơ chế thu hút nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn công nghệ cao, khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị với doanh nghiệp trong nước. Tạo lập môi trường kinh doanh ổn định và thông thoáng, qua đó giải phóng năng lực, làm bừng nở nguồn lực kinh tế tư nhân, phục hồi tăng trưởng kinh tế, đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc vào khu vực FDI.

Từ tuân thủ đến thiết lập “luật chơi” toàn cầu

Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Việt Nam kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới vào năm 1986 đến nay, nhưng mỗi thời kỳ đều có những điều chỉnh phù hợp  tình hình thực tiễn.

Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Kiên, khi thế giới chưa được phân chia rõ theo các cực thì kinh tế tự chủ là sự liên kết với các nước xã hội chủ nghĩa trong một chuỗi khép kín, tự cung, tự sản xuất và tự bảo đảm cho nền kinh tế. Bước sang thế kỷ 21, khái niệm kinh tế độc lập tự chủ, theo các nghị quyết của Đảng, là nền kinh tế mà các doanh nghiệp Việt Nam tham gia bình đẳng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời được thảo luận về các giá trị đã đóng góp trong chuỗi để có được lợi nhuận. Tuy nhiên, ngoài lĩnh vực nông nghiệp chúng ta có thể tương đối tự chủ, có thể mặc cả hay tham gia định giá vì có số lượng hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn như gạo, cà-phê, các lĩnh vực còn lại  vẫn chưa đạt được sự tự chủ. Cần đổi mới quản trị nhà nước, quản trị doanh nghiệp để tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, đây là phương thức không tốn kém kinh phí mà tận dụng được các nguồn lực hiện có, đặc biệt là có dư địa từ củng cố bộ máy quản trị doanh nghiệp nhà nước.

Theo ghi nhận của chúng tôi trong quá trình thực hiện bài viết này, hiện có nhiều ý kiến từ cơ sở, tổ chức nghiên cứu và giới chuyên gia kinh tế nhận định tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến rất nhanh chóng và phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ và rủi ro cho sự phát triển của đất nước trong thời gian tới. Cần làm rõ nội hàm về nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh và điều kiện mới, gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó có các tiêu chí đánh giá mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hiệu quả để xây dựng thành công nền kinh tế Việt Nam có nội lực và năng lực cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế sâu rộng, có khả năng thích ứng và chống chịu được trước những biến chuyển và tác động bất lợi từ bên ngoài.

Từ thực tiễn nghiên cứu chuyên đề phục vụ xây dựng Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Thứ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết, điều kiện cần và đủ đối với một nền kinh tế độc lập, tự chủ là phải đáp ứng được các tiêu chí về thể chế cũng như về thực lực và tiềm lực kinh tế. Về thể chế là sự độc lập, tự chủ trong xây dựng, triển khai lộ trình, bước đi hội nhập quốc tế. Khi hội nhập quốc tế sâu rộng, phải tuân thủ “luật chơi” chung của kinh tế toàn cầu và khu vực. Dưới góc độ này, độc lập, tự chủ kinh tế chính là chủ động tìm và xác lập một vị thế phù hợp trong hệ thống kinh tế thế giới, tham gia kiến tạo “luật chơi”, đồng thời biết vận dụng sáng tạo “luật chơi”, cam kết quốc tế phù hợp điều kiện và khả năng của đất nước. Tiềm lực kinh tế thể hiện ở năng lực cạnh tranh cao ở cả cấp độ nền kinh tế, doanh nghiệp, sản phẩm quốc gia; có năng lực chống chịu, trụ vững và phục hồi trước các cú sốc hoặc tình huống bất lợi. Muốn vậy, cần có nguồn lực vật chất thiết yếu để bảo đảm được các cân đối lớn, an ninh kinh tế như an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính tiền tệ… Với cách tiếp cận như thế, cần thúc đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế thông qua các giải pháp thực hiện ba khâu đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Đồng thời cần có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh chất lượng của nền kinh tế; duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, bảo đảm an ninh và an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh, biến đổi khí hậu…

Một cách khái quát, nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao, ít bị tổn thương trước những biến động của tình hình quốc tế, trong bất cứ tình huống nào cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Soi vào thực tiễn, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương cho biết, không khó để nhận ra những yêu cầu cấp bách về nâng cao tính độc lập, tự chủ đang hiện hữu trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.

Đơn cử ngành điện lực: Tại thời điểm lập kế hoạch, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dự tính giá dầu thô ở mức 74 USD/thùng, giá than khoảng 120 USD/tấn nhưng đầu quý II/2022, giá dầu thô tăng lên 105 USD/thùng, giá than tăng gấp ba lần do ảnh hưởng của cuộc xung đột tại Ukraine. Dự tính cả năm 2022, EVN có thể mất cân đối tài chính khoảng 27 nghìn tỷ đồng - 63 nghìn tỷ đồng từ phát sinh chi phí tăng thêm do biến động giá dầu thô và giá than thế giới do là nước nhập khẩu ròng năng lượng. Nhưng Việt Nam cũng đi trước rất nhiều quốc gia khi cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 nên việc bảo đảm an ninh năng lượng và thực thi cam kết COP-26 là một thách thức rất lớn. Bài toán bảo đảm an ninh năng lượng vì thế đang được xem xét, điều chỉnh lại cả về cách đặt đầu bài lẫn phương án giải quyết. Thuận lợi là ở chỗ, Chính phủ đang trong thời điểm xây dựng Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia và Quy hoạch điện VIII giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và 2050 nên sẽ có cơ hội dịch chuyển nhanh sang năng lượng tái tạo để ứng phó với nguy cơ thiếu hụt năng lượng trong tương lai.

Là chuyên gia tham vấn chính sách vĩ mô nhưng Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đình Thiên chọn hình ảnh gần gũi để nói về vị thế của đất nước ở giai đoạn đặc biệt này: Kinh tế Việt Nam vững vàng trong dông bão. Ông Thiên chỉ ra, thế giới mà chúng ta đang sống ngày càng bất ổn, bất định. Sau rất nhiều mất mát, những tưởng mọi việc sẽ khép lại khi thảm hoạ Covid-19 thoái trào, nhưng thế giới chưa đi qua dịch bệnh đã nổ ra xung đột tại Ukraine, tiếp đến là nền kinh tế lớn thứ hai (Trung Quốc) đóng cửa hoàn toàn để chống dịch, khiến cho những đứt gãy trong mối liên kết kinh tế toàn cầu không những không thể nối lại mà còn trầm trọng thêm.

Trong vòng xoáy bất ổn toàn cầu, Việt Nam xác định “trong nguy có cơ”, luôn tìm năng lực mới, cách thức mới để trụ vững và đứng lên. Tâm thế đó mang đến cho đất nước cơ hội trỗi dậy, xoay chuyển tình thế trong một trật tự kinh tế mới đang được thiết lập lại.

Sau đại dịch, Việt Nam không chỉ thực hiện chương trình phục hồi kinh tế mà là phục hồi và phát triển, nghĩa là tận dụng cơ hội để bứt lên đua tranh. Chúng ta đang có đà, có thế và hơn tất cả là có khát vọng rất mạnh mẽ để trỗi dậy. Đây là nền tảng giúp nền kinh tế bứt phá, cần nắm lấy cơ hội và hành động quyết liệt để xoay chuyển tình thế, chấp nhận nghĩ khác, làm khác, bước ra ngoài vùng an toàn để tạo nên những giá trị mới.

Nội dung : Thu Hà, Hà Thanh Giang, Tô Hà, Việt Hải, Hoàng Anh
Ảnh: Trần Hải
Trình bày mỹ thuật : Bích Diệp