XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẤT NƯỚC THỐNG NHẤT

Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành, giữ nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân tộc Việt Nam đã tích lũy được nhiều tri thức và kinh nghiệm quân sự phong phú, hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự rất độc đáo, sáng tạo, mang đậm dấu ấn văn hóa, tư chất và trí tuệ Việt Nam.

Đất nước thống nhất tạo ra sức mạnh mới, những thuận lợi mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào khôi phục, xây dựng về mọi mặt, trong đó có điều kiện tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng tình hình mới. Song, công cuộc xây dựng đất nước nói chung, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp.

Sau thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ thực hiện điều chỉnh một bước về chiến lược quân sự toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Với “Kế hoạch tiến công hạt nhân” (ký hiệu SIOP-5) và “Phương án chuẩn bị lực lượng một cuộc chiến tranh rưỡi” (01/1976), Mỹ chủ trương chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân chủ yếu chống Liên Xô; cùng đồng minh chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh thông thường lớn (phi hạt nhân) trên một trong hai chiến trường lớn (Trung Âu hoặc Đông Bắc Á); đồng thời sẵn sàng lực lượng tiến hành chiến tranh quy mô nhỏ ở những điểm nóng đột xuất; tiếp tục duy trì 49 vạn quân (trong tổng số hơn 2 triệu quân thường trực của nước Mỹ) đóng tại các căn cứ nước ngoài, đổi mới vũ khí tiến công chiến lược, củng cố các khối liên minh quân sự trên toàn cầu.

Ở Đông Nam Á, lực lượng quân sự Mỹ đã buộc phải rút khỏi nhiều vị trí quan trọng, vai trò và ảnh hưởng của Mỹ suy giảm. Không đặt Đông Nam Á quan trọng trong chiến lược toàn cầu, nhưng Mỹ toan tính khôi phục lại vị trí vai trò và uy tín ở khu vực này. Các liên minh “tay đôi”, “tay ba” do Mỹ dựng lên, lôi kéo các thế lực phản động, các nước đồng minh thân Mỹ vào cuộc tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Mỹ lợi dụng sự bất đồng giữa một số nước xã hội chủ nghĩa và mâu thuẫn giữa hai nước Liên Xô - Trung Quốc để ngăn chặn và đẩy lùi ảnh hưởng của “làn sóng cộng sản” trong khu vực. Mặt khác, Mỹ thực hiện ý đồ áp đặt cho Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)1 đóng vai trò đồng minh chính trị, quân sự thay thế khối SEATO chống lại các nước Đông Dương.

Hình ảnh chiến sỹ cảm tử quân, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Hà Nội ngày 23/12/1946 mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, mà ở đó mỗi người dân đều là chiến sỹ và sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.

Hình ảnh chiến sỹ cảm tử quân, đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu ôm bom ba càng, sẵn sàng tiêu diệt xe tăng địch trên đường phố Hà Nội ngày 23/12/1946 mãi mãi là biểu tượng bất tử về cuộc chiến tranh nhân dân, mà ở đó mỗi người dân đều là chiến sỹ và sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước năm 1975 của nhân dân các nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã tạo nên một cục diện mới trên bán đảo Đông Dương, cả ba nước hoàn toàn độc lập, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân mỗi nước tiếp tục tiến lên. Riêng với Campuchia, thành quả cách mạng vừa giành được (4/1975) bị tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xary nắm giữ. Chúng đã biến mình thành công cụ của các thế lực phản động quốc tế, đưa dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt chủng và thi hành chính sách đối ngoại thù địch với nước láng giềng Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, vẫn câu kết chặt chẽ với các thế lực phản động quốc tế thực hiện chính sách thù địch cấm vận, bao vây kinh tế, hòng kìm hãm sự phát triển mọi mặt, làm suy yếu và giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ muốn xây dựng đất nước có tiềm lực quân sự - quốc phòng mạnh, trước hết phải có nền kinh tế mạnh; cần phải kiên quyết khắc phục sự chậm trễ do 30 năm chiến tranh tàn phá, kìm hãm nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước; tập trung lãnh đạo, huy động sức người, sức của toàn dân xây dựng kinh tế; giảm quân số lực lượng vũ trang, giảm ngân sách quốc phòng, điều động một bộ phận quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước; đồng thời huy động quân và dân cả nước chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ. Trong ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.

Thủ đô Hà Nội ngày ấy mỗi ngôi nhà là một pháo đài, mỗi đường phố là một chiến tuyến, mỗi người dân là một chiến sỹ. Trong ảnh: Bộ đội, tự vệ cùng nhân dân thành phố đắp lũy, dựng vật cản chặn quân Pháp trên phố Mai Hắc Đế.

Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu cùng với Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Kỹ thuật tập trung nghiên cứu, quán triệt những quan điểm tư tưởng và định hướng lớn về cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng, đề xuất những vấn đề về quân sự - quốc phòng, trước mắt tập trung xây dựng kế hoạch phòng thủ đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân và huy động quân đội tham gia xây dựng kinh tế đất nước, góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh.

Ngày 21/7/1975, Quân ủy Trung ương xác định: “Đi đôi với nhiệm vụ cách mạng mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta còn có nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”1.

Để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ an ninh đất nước trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9/1975), nêu rõ: “Ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất; luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai; sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm phạm lãnh thổ của nước ta”2.

Về nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hội nghị khẳng định: “Trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt, ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng các khu vực chiến lược quan trọng, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước có lực lượng ngày càng mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến công của bọn xâm lược. Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc. Xây dựng lực lượng công an nhân dân vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có trình độ khoa học, kỹ thuật khá, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, có lực lượng chuyên trách chính quy và cơ sở quần chúng vững mạnh”1.

Kéo pháo vượt rừng sâu, núi cao vào Điện Biên Phủ.

Kéo pháo vượt rừng sâu, núi cao vào Điện Biên Phủ.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, ngày 03/10/1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ quân sự trong giai đoạn mới”, nêu rõ: Vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân hiện đại, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không chỉ là vấn đề đơn thuần quân sự mà còn là vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật. Nó đòi hỏi sự cố gắng to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, tổ chức nghiên cứu phương hướng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, củng cố thế chiến lược phòng thủ đất nước; đồng thời khẩn trương kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng vũ trang, điều chỉnh quân số phù hợp với chức năng, nhiệm vụ thời bình, đẩy mạnh xây dựng chính quy, hiện đại trên phạm vi cả nước.

Trải qua 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta đã xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân và một lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh đủ sức đánh bại hai đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng đội quân tay sai của chúng.

Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trong cuộc chiến tranh lâu dài, biểu hiện tập trung ở tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội rất cao trong nhân dân lao động cả nước. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi thôn xóm là một pháo đài. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn bộ nền quốc phòng miền Bắc chuyển vào trạng thái chiến tranh với khẩu hiệu: “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, đồng thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân hai nước Lào và Campuchia.

Tuy nhiên, nền quốc phòng của đất nước còn có những nhược điểm rất lớn, chủ yếu do tình trạng chậm phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân ta tiến hành chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần tự lực rất cao, nhưng chủ yếu là về sức người, còn hơn 95% vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật phải dựa vào sự chi viện to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh kết thúc, Tổ quốc độc lập và thống nhất, nền quốc phòng toàn dân bắt đầu bộc lộ sự mất cân đối giữa hai miền đất nước.

Hội nghị Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 22/4/1954

Hội nghị Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch tại Mường Phăng hạ quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 22/4/1954

Ở miền Bắc, các hệ thống đường giao thông, sân bay, hải cảng, kho, xưởng, thông tin đã có bước phát triển rất quan trọng trong chiến tranh, nhưng về lâu dài vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện tác chiến hiện đại, vũ khí công nghệ cao. Ở miền Nam, hệ thống công trình quân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật quân sự thu được của Mỹ và quân đội Sài Gòn tuy khá hiện đại, nhưng tập trung phần lớn dọc ven biển, thiếu chiều sâu, chưa đáp ứng được yêu cầu phòng thủ đất nước trong tình hình mới.

Lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là quân đội nhân dân, đóng vai trò trụ cột của nền quốc phòng toàn dân trong hoàn cảnh vừa chiến đấu, vừa xây dựng, đã tiến bộ nhanh chóng về mọi mặt. Quân đội nhân dân phát triển nhanh với tổng quân số khá lớn, tập trung thành nhiều quân đoàn, sư đoàn, trung đoàn, có đủ các quân chủng, binh chủng được trang bị hiện đại và tương đối hiện đại. Lực lượng dự bị và lực lượng vũ trang quần chúng (du kích, dân quân, tự vệ) rất hùng hậu (2 triệu ở miền Bắc và hơn 10 vạn ở miền Nam). Đội ngũ cán bộ được tôi luyện, có nhiều kinh nghiệm, trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn. Khối lượng binh khí kỹ thuật thu được của địch tạo điều kiện để phát triển các thành phần binh chủng của lực lượng vũ trang lên một bước. Mặt khác, do điều kiện chiến tranh kéo dài, một số chế độ quy định chưa được thực hiện thống nhất trong toàn quân, thể hiện trình độ chính quy của quân đội nhân dân còn có điểm hạn chế.

Mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa có những điểm khác biệt so với thời kỳ cách mạng và chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc trước đây. Tiến hành sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân lúc này là bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc đã giành được, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, phòng ngừa, ngăn chặn, đánh bại mọi hành động xâm lược từ bên ngoài.

Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, là nhân tố hàng đầu trong suốt tiến trình của cách mạng, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa vừa là mục đích, vừa là động lực của chuyên chính vô sản, của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tính tổ chức và sáng tạo của toàn dân, tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Trong giai đoạn cách mạng mới, làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu tất yếu của nhiệm vụ xây dựng đất nước, đồng thời nó cũng đặt ra một cách khách quan nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với xây dựng đất nước. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân, chính là sự kế thừa, phát triển lên một trình độ mới truyền thống giữ nước độc đáo của dân tộc, toàn dân đánh giặc, “tận dân vi binh”1, xây dựng thế trận làng nước để thực hiện cả nước đánh giặc; đồng thời đó cũng chính là sự phát triển những quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Nông dân Thái Bình vận chuyển thóc đến đóng thuế cho nhà nước tại tổng kho thị xã Hòa Bình, tháng 12/1960. 

Nông dân Thái Bình vận chuyển thóc đến đóng thuế cho nhà nước tại tổng kho thị xã Hòa Bình, tháng 12/1960. 

Nhiệm vụ trước mắt là tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu của nhiệm vụ quân sự - quốc phòng cần kíp đã đề ra, trong đó trọng tâm là triển khai đồng bộ các mặt điều chỉnh, xây dựng thế bố trí chiến lược phòng thủ đất nước; kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân theo hướng tiến lên chính quy, hiện đại, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, đóng vai trò nòng cốt trong nền quốc phòng toàn dân; đồng thời triển khai một bộ phận lực lượng quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương phân tích, đánh giá và chỉ rõ một trong những đặc điểm của nền quốc phòng toàn dân sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổ quốc độc lập và thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là sự mất cân đối giữa hai miền đất nước. Vì thế, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã sớm đề ra những chủ trương khắc phục tình trạng này của nền quốc phòng toàn dân từ những tháng cuối năm 1975.

Phi công Mỹ bị bắt sống trong đợt đánh phá miền Bắc, tháng 8/1966. 

Phi công Mỹ bị bắt sống trong đợt đánh phá miền Bắc, tháng 8/1966. 

Để thống nhất quản lý, điều hành đất nước và thực hiện hiệu quả kế hoạch nhà nước trong 5 năm đầu đất nước thống nhất, đồng thời để tiến hành triển khai thế chiến lược phòng thủ đất nước, tháng 10/1975, Bộ Chính trị quyết định bỏ cấp khu và điều chỉnh quy hoạch lại địa giới hành chính các tỉnh, thành phố trên phạm vi toàn quốc gồm 35 tỉnh, 3 thành phố. Trên cơ sở đó, tháng 11/1975, Bộ Chính trị quyết định điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy thống nhất nhiệm vụ phòng thủ đất nước trên các hướng chiến lược ở cả Bắc, Trung, Nam.

Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Quốc phòng tổ chức các cơ quan chức năng, do Bộ Tổng Tham mưu chủ trì hiệp đồng nghiên cứu và triển khai điều chỉnh, sắp xếp, tổ chức lại các quân khu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố, bảo đảm yêu cầu phòng thủ cả đất nước, nhất là các hướng chiến lược trọng điểm (biên giới, biển đảo); đồng thời bảo đảm cho lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân kết hợp triển khai thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước trên quy mô toàn quốc, cũng như trên mỗi khu vực, hay vùng lãnh thổ, địa phương của cả nước.

Cho đến cuối năm 1975 và những tháng đầu năm 1976, trên cơ sở 11 quân khu (cũ), cả nước được tổ chức lại thành 6 quân khu (1, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo từng vùng lãnh thổ, có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự, quốc phòng, an ninh, kinh tế, xã hội, từ Bắc vào Nam. Mỗi quân khu là một tổ chức quân sự theo vùng lãnh thổ (thường gồm một số tỉnh, thành phố giáp nhau, có liên quan với nhau về quân sự - quốc phòng) trực thuộc Bộ Quốc phòng, đảm nhiệm phòng thủ trên một hướng chiến lược của đất nước. Bộ tư lệnh quân khu là cơ quan chỉ huy có chức năng cơ bản là chỉ đạo công tác quốc phòng và xây dựng tiềm lực quân sự thời bình; chỉ đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang quân khu chiến đấu bảo vệ lãnh thổ của quân khu thời chiến.

Đáp lời kêu gọi của Bác và chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng, quân dân ta tại các thành phố, thị xã ở bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng đánh địch. Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Trong ảnh: Giao liên đưa cán bộ đi. Ảnh: TTXVN

Đáp lời kêu gọi của Bác và chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng, quân dân ta tại các thành phố, thị xã ở bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng đánh địch. Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Trong ảnh: Giao liên đưa cán bộ đi. Ảnh: TTXVN

Quân khu 1 nằm ở phía bắc miền Bắc Việt Nam (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Việt Bắc và Quân khu Tây Bắc cũ) gồm 7 tỉnh: Cao Lạng (Lạng Sơn, Cao Bằng), Bắc Thái (Bắc Kạn, Thái Nguyên), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Sơn La và Lai Châu (Điện Biên, Lai Châu).

Quân khu 3 nằm ở đồng bằng Bắc Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn cũ) gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nam Ninh (Nam Hà, Ninh Bình), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hoà Bình)1, Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Thái Bình, Quảng Ninh (năm 1978, tỉnh Quảng Ninh chuyển về thuộc Quân khu 1), Hà Bắc (Bắc Giang, Bắc Ninh; năm 1978, tỉnh Hà Bắc chuyển về thuộc Quân khu 1), Hải Phòng.

Quân khu 4 ở Bắc Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 4, Quân khu Trị Thiên cũ và tỉnh Thanh Hóa thuộc Quân khu 3) gồm 3 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh (Nghệ An, Hà Tĩnh), Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế).

Quân khu 5 ở miền Nam Trung Bộ (trên cơ sở hợp nhất Quân khu 5, Quân khu 6 và Mặt trận Tây Nguyên) gồm 7 tỉnh: Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng), Nghĩa Bình (Quảng Ngãi, Bình Định), Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hoà), Gia Lai - Kon Tum (Gia Lai, Kon Tum), Đắk Lắk (Đắk Lắk, Đắk Nông), Thuận Hải (Ninh Thuận, Bình Thuận), Lâm Đồng2.

Tiêu thổ kháng chiến ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc).

Tiêu thổ kháng chiến ở Tam Đảo (Vĩnh Phúc).

Quân khu 7 ở miền Đông Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 7 và một số tỉnh Quân khu 8 cũ) gồm 6 tỉnh, thành phố: Đồng Nai, Sông Bé (Bình Dương, Bình Phước), Long An, Tây Ninh, Bến Tre và thành phố Sài Gòn - Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh).

Quân khu 9 ở miền Tây Nam Bộ (trên cơ sở Quân khu 9 và một số tỉnh Quân khu 8 giải thể) gồm 7 tỉnh: Tiền Giang, Cửu Long (Vĩnh Long, Trà Vinh), Hậu Giang (Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ), Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Minh Hải (Bạc Liêu, Cà Mau).

Bộ Tư lệnh Thủ đô (thành phố Hà Nội) giữ nguyên không thay đổi. Toàn bộ vùng lãnh thổ đất liền cả nước ta được phân chia lại từ 11 quân khu thành 6 quân khu và Bộ Tư lệnh Thủ đô theo địa giới hành chính mới của các tỉnh, thành phố (từ 60 tỉnh, thành đội đã chấn chỉnh còn 38 tỉnh và thành đội), khắc phục được một bước tình trạng mất cân đối của nền quốc phòng toàn dân; đồng thời cũng hình thành một thế chiến lược phòng thủ chung trong thế trận đất nước thống nhất, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.

Đi đôi với việc điều chỉnh tổ chức các quân khu trong cả nước, nhiệm vụ củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được triển khai thực hiện, đáp ứng tình hình mới. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, các lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương đã thực hiện điều chỉnh về tổ chức biên chế, giảm tổng quân số, bố trí sắp xếp lại lực lượng, giải quyết nhiều vấn đề sau chiến tranh.

Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thường vụ Quân uỷ Trung ương quyết định trước mắt: Tập trung chỉ đạo các đơn vị quân đội tham gia quản lý, ổn định các vùng mới giải phóng; kiện toàn một bước các đơn vị chiến đấu và xác định phương hướng xây dựng và nhiệm vụ của lực lượng vũ trang trong thời gian tới. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (9/1975) nhấn mạnh: “Ra sức xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng hùng hậu, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị to lớn được huấn luyện tốt; có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, có lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp và vững chắc”1.

Lực lượng pháo cao xạ của ta đã anh dũng chiến đấu và lập công xuất sắc, không chỉ bảo vệ bầu trời, yểm hộ bộ binh chiến đấu, mà còn góp phần chặn đứng việc chi viện bằng đường hàng không cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ.

Lực lượng pháo cao xạ của ta đã anh dũng chiến đấu và lập công xuất sắc, không chỉ bảo vệ bầu trời, yểm hộ bộ binh chiến đấu, mà còn góp phần chặn đứng việc chi viện bằng đường hàng không cho quân Pháp tại Điện Biên Phủ.

Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trên hai miền Nam - Bắc khẩn trương chuyển từ thời chiến sang thời bình, thực hiện chức năng đội quân công tác trên cả nước, trong đó tập trung vào nhiệm vụ tiếp quản, quản lý ổn định các vùng mới giải phóng ở miền Nam, tiến hành chấn chỉnh kiện toàn tổ chức biên chế lực lượng, tiếp tục xây dựng quân đội chính quy, hiện đại, sắp xếp và cơ động lực lượng về các địa bàn chiến lược, đóng quân theo thế phòng thủ chung của cả nước, đồng thời triển khai kế hoạch sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng triệt để. Bước ngoặt của cách mạng sau đại thắng mùa Xuân 1975 với những biến đổi nhanh chóng sâu sắc trên mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội, cùng những thuận lợi và khó khăn đã tác động đến tâm lý, nhận thức, hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ, đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân. Những tác động đó cộng với âm mưu chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước, ảnh hưởng đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng trong và ngoài lực lượng vũ trang, làm nảy sinh tư tưởng lệch lạc, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của quân đội, vi phạm pháp luật nhà nước làm giảm sức chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Đánh giá thực trạng tình hình lúc đó, Quân uỷ Trung ương nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ và chiến sĩ, nhất là các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng ở miền Nam, có sự diễn biến tâm lý, tư tưởng; và biểu hiện hành động ngày càng phức tạp, do chịu tác động khách quan của lối sống thực dụng, coi đồng tiền vật chất là trên hết. Nhưng chủ yếu là do sự chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các đơn vị toàn quân từ cấp cơ sở đến cấp cao, đã say sưa với thắng lợi quá nhanh, quá lớn và cũng “xả hơi”, không còn tích cực chủ động tiến công sắc bén kịp thời như trong chiến tranh nữa. Do chủ quan lỏng lẻo trong lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, quản lý bộ đội nên tuy đã có nghị quyết, chỉ thị đúng nhưng quan liêu, hời hợt, thiếu đôn đốc kiểm tra nên không nắm được tình hình đầy đủ chính xác, không kịp thời uốn nắn chấn chỉnh”1.

Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn

Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn

“Những trì trệ trong công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị dẫn tới nhiều tâm tư nguyện vọng đúng đắn của bộ đội chậm được giải quyết, những biểu hiện sai trái không được đấu tranh ngăn chặn kịp thời. Vì thế, ở các đơn vị ngày càng tăng số quân nhân băn khoăn, kém phấn khởi, không yên tâm làm nhiệm vụ... Số quân nhân sa sút phẩm chất cách mạng, tha hoá về đạo đức lối sống, vụ lợi thu vén cá nhân, buôn bán đổi chác, chiếm tài sản chung làm của riêng, giao du vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật và pháp luật ngày càng nhiều trong đó có cả cán bộ và đảng viên ở các cấp. Những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá đó đã làm phai nhạt tình đồng chí, đồng đội; làm hoen ố bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội, gây ảnh hưởng xấu về chính trị trong quần chúng”1.

Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng chủ động đề ra nhiều biện pháp thực hiện công tác tư tưởng trong giai đoạn cách mạng mới, nâng cao quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội, ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tăng cường sức mạnh lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành các đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực của đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, quốc phòng, an ninh được đề ra trong các chỉ thị, nghị quyết, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III (9/1975).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu năm 1947.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu năm 1947.

Trong quân đội, ngay sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Chính trị đã điện gửi bí thư đảng ủy, chính ủy và chủ nhiệm chính trị các đơn vị trực thuộc Quân ủy Trung ương, nêu rõ: Cần tiến hành giáo dục chính trị, làm chuyển biến một bước nhận thức tư tưởng của bộ đội trước tình hình mới. Nhanh chóng điều chỉnh sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức, cải tiến phương pháp và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới, bảo đảm làm tròn nhiệm vụ được giao.

Từ ngày 13 đến ngày 18/10/1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”; đồng thời thống nhất những vấn đề lớn của kế hoạch quân sự 5 năm (1976-1980). Tiếp đó, ngày 24/10/1975, Quân ủy Trung ương chỉ thị tiến hành đợt sinh hoạt chính trị ở tất cả các cấp trong quân đội, học tập quán triệt tình hình nhiệm vụ của cách mạng cả nước, nhiệm vụ quân sự trong thời kỳ mới.

Ngày 10/12/1975, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị số 226/QUTW “Về nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong quân đội”, trong đó nhấn mạnh: Cần tăng cường giáo dục và quản lý chặt chẽ hơn nữa việc chấp hành kỷ luật của bộ đội, có biện pháp hiệu quả, phù hợp với từng địa phương, từng đơn vị, từng đối tượng, tránh chủ quan, đơn giản trong tổ chức biên chế và giảm quân số. Đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn quán triệt Nghị quyết lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị đã góp phần quan trọng, tạo sự chuyển biến về nhận thức tư tưởng, ý thức trách nhiệm và hành động trong mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng trên các lĩnh vực, đặc biệt đã làm chuyển biến, thống nhất và đề cao ý thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất.

Đến cuối năm 1975, nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, trong đó có nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu, điều chỉnh được một bước về thế chiến lược phòng thủ đất nước, tạo cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ trong những năm tiếp theo.

Công cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành thắng lợi vào năm 1957, vĩnh viễn thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến và xác lập chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to lớn và căn bản, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân, có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong ảnh: Nông dân mít tinh ủng hộ chính sách cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, năm 1955.

Công cuộc cải cách ruộng đất hoàn thành thắng lợi vào năm 1957, vĩnh viễn thủ tiêu chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến và xác lập chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân. Thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to lớn và căn bản, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc, đem lại niềm phấn khởi trong nông dân, có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong ảnh: Nông dân mít tinh ủng hộ chính sách cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ, năm 1955.

Sang năm 1976, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh hoạt động về mọi mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”. Đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiếp tục được đẩy mạnh với khí thế mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân một di sản tư tưởng cách mạng lớn. Học tập, vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, kế thừa và phát triển tư tưởng quân sự dân tộc, cùng những tác phẩm lý luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dồn tâm sức nghiên cứu, phấn đấu trong bước ngoặt cách mạng chuyển sang giai đoạn mới.

Đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư (từ tháng 12/1976) đã viết tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam1. Tác phẩm này là cơ sở lý luận quan trọng làm căn cứ cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách cách mạng, để cán bộ, đảng viên, toàn dân và toàn quân học tập, nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh.

Ngày 15/01/1976, Quốc hội, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố Lệnh tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 54 đơn vị và 42 cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam lập nhiều thành tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tháng 4/1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng viết bài: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”1. Đại tướng tập trung luận giải, làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới ở nước ta, nhằm góp phần giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn của sự nghiệp củng cố quốc phòng, đồng thời góp phần chuẩn bị bước đầu cho việc giải quyết những nhiệm vụ lâu dài của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đại tướng nêu rõ: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là một nhiệm vụ rất quan trọng trong giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là một vấn đề cơ bản thuộc về đường lối và nhiệm vụ chính trị, đường lối và nhiệm vụ quân sự của Đảng trong thời kỳ hoà bình, xây dựng đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bí thư thứ nhất BCH TW Đảng Lê Duẩn dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII, tháng 10/1961.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bí thư thứ nhất BCH TW Đảng Lê Duẩn dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XXII, tháng 10/1961.

Sau khi phân tích sâu sắc các vấn đề về mục đích, bản chất, sức mạnh, ý nghĩa của nền quốc phòng, Đại tướng nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng lực lượng thường trực với xây dựng lực lượng hậu bị, giữa xây dựng lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình với xây dựng lực lượng tiềm tàng về mọi mặt của đất nước, sẵn sàng được động viên trong thời chiến; phải kết hợp chặt chẽ yêu cầu thời bình với yêu cầu thời chiến”.

Tiếp đó, Đại tướng chỉ rõ “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là phải xây dựng cả tiềm lực chính trị và tinh thần, tiềm lực kinh tế và khoa học, tiềm lực quân sự, phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự... Những tiềm lực đó đều có vai trò hết sức quan trọng, có mối quan hệ mật thiết với nhau và tác động qua lại lẫn nhau”1.

Tiếp đó, bài nói chuyện của đồng chí Lê Duẩn - Bí thứ thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 7/1976 tại Hội nghị cán bộ học tập Nghị quyết Bộ Chính trị về những công tác trước mắt ở miền Nam, nêu rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới, chỉ rõ: “Tuy đất nước đã hoà bình, nhưng chúng ta phải luôn luôn coi trọng sự nghiệp củng cố quốc phòng, phải duy trì đội quân thường trực mạnh để sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ củng cố quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ trung tâm của cả nước là ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, quân đội ta phải làm hai nhiệm vụ:

Một là, xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và tiến hành phòng thủ đất nước vững chắc.

Hai là, xây dựng kinh tế để góp phần nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước phồn vinh”1.

Tác phẩm Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cùng nhiều tác phẩm khác của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được cuối năm 1975, trong những tháng đầu năm 1976, các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân giữ vai trò lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh chấn chỉnh lực lượng, kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng chính quy, hiện đại, tăng cường phòng thủ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.

Để thống nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và chỉ huy của Bộ Tổng Tư lệnh đối với lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân trên toàn quốc, ngày 07/7/1976, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam và Bộ Tư lệnh Miền, tổ chức thành ba quân khu 5, 7, 9. Cùng thời gian này, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc trở lại với tên gọi Quân đội nhân dân Việt Nam. Lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành thống nhất trên toàn quốc.

Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 1976, Quân ủy Trung ương báo cáo Bộ Chính trị “Về tình hình nhiệm vụ quân sự và một số công tác quân sự cần kíp trong giai đoạn mới”, trong đó nêu rõ: “Hiện nay hoà bình đã lập lại trên toàn bộ đất nước, giảm tổng quân số bộ đội thường trực là vấn đề cấp thiết nhằm giảm kinh phí quốc phòng, tăng lực lượng sản xuất và kinh tế, cần đưa tổng số quân từ 123 vạn xuống 80 vạn (50 vạn chiến đấu, 10 vạn sản xuất quốc phòng, 20 vạn xây dựng kinh tế)”1.

Theo phương hướng đó, Bộ Quốc phòng chỉ đạo thực hiện giảm tổng quân số, kiện toàn quy mô cơ cấu tổ chức quân đội theo quyết nghị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương cho phù hợp với yêu cầu xây dựng trong thời bình, với yêu cầu giảm ngân sách quốc phòng, đáp ứng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và các nhiệm vụ khác của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Cơ cấu tổ chức quân đội nhân dân gồm 3 quân chủng: Quân chủng Lục quân, Quân chủng Phòng không - Không quân và Quân chủng Hải quân. Lục quân gồm các binh chủng hợp thành: Bộ binh, Pháo binh, Công binh, Tăng - Thiết giáp, Đặc công, Hoá học, Thông tin liên lạc.

Binh chủng Bộ binh được tổ chức thành 4 binh đoàn chủ lực cơ động (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4) và các sư đoàn, trung đoàn trực thuộc Bộ và quân khu; các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tỉnh, thành phố, huyện, quận. Mỗi quân đoàn biên chế thống nhất 3 sư đoàn bộ binh, các lữ đoàn, trung đoàn binh chủng, các đơn vị bảo đảm, phục vụ và cơ quan trực thuộc.

Ngày 2 và 5/8/1964, Hải quân nhân dân lần đầu ra quân đối đầu với hải quân và không quân Mỹ đánh phá miền Bắc đã dũng cảm chiến đấu, đánh đuổi tàu khu trục Maddox ra khỏi vùng biển Việt Nam, bắn rơi 8 máy bay trên vùng biển, vùng trời miền Bắc, làm nên truyền thống “đánh thắng trận đầu” và quyết tâm “dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng” của quân chủng Hải quân. 

Ngày 2 và 5/8/1964, Hải quân nhân dân lần đầu ra quân đối đầu với hải quân và không quân Mỹ đánh phá miền Bắc đã dũng cảm chiến đấu, đánh đuổi tàu khu trục Maddox ra khỏi vùng biển Việt Nam, bắn rơi 8 máy bay trên vùng biển, vùng trời miền Bắc, làm nên truyền thống “đánh thắng trận đầu” và quyết tâm “dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng” của quân chủng Hải quân. 

Binh chủng Pháo binh được kiện toàn thành 4 lữ đoàn pháo binh trực thuộc Bộ Tư lệnh Pháo binh và các đơn vị pháo binh trực thuộc các quân khu, quân đoàn, sư đoàn.

Binh chủng Công binh kiện toàn thống nhất lực lượng thành các lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Binh chủng Tăng - Thiết giáp tổ chức lực lượng thành các lữ đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và lực lượng trực thuộc các quân đoàn, quân khu.

Binh chủng Đặc công kiện toàn tổ chức thành các trung đoàn và tiểu đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các quân khu, quân đoàn.

Binh chủng Hoá học tổ chức lực lượng theo quyết định của Bộ Quốc phòng chuyển Cục Hoá học trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu thành Bộ Tư lệnh Hoá học (17/7/1976), gồm Viện Hoá học quân sự, Xưởng khí tài hoá học, Kho khí tài hóa học, Trường đào tạo bổ túc sĩ quan, 3 tiểu đoàn hoá học và các phân đội thông tin, vận tải, xây dựng.

Binh chủng Thông tin liên lạc kiện toàn lực lượng thành 3 trung đoàn trực thuộc Bộ Tư lệnh Binh chủng và các trung đoàn, tiểu đoàn thông tin trực thuộc các quân khu, quân đoàn, quân chủng.

Nhìn chung, khối các binh chủng hợp thành lục quân được tăng cường vũ khí, phương tiện, trang bị kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu nâng cao sức cơ động, khả năng chiến đấu, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Quân chủng Phòng không - Không quân, lực lượng nòng cốt trong chiến tranh nhân dân đất đối không, không đối không, bảo vệ chủ quyền vùng trời Tổ quốc, được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, bố trí lực lượng hợp lý trên các địa bàn chiến lược, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Quân chủng Hải quân, lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân trên chiến trường sông, biển, bảo vệ chủ quyền vùng biển và hải đảo của Tổ quốc được tổ chức lực lượng thành 5 bộ tư lệnh vùng hải quân duyên hải, sau đó được điều chỉnh lại thành 4 vùng (mỗi vùng tương đương sư đoàn) và 1 khu duyên hải, 2 hạm đội (tương đương trung đoàn và lữ đoàn), 1 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến (sau đổi thành hải quân đánh bộ), các trung đoàn và tiểu đoàn hỗn hợp phòng thủ đảo, 1 tiểu đoàn máy bay trinh sát và trực thăng, 1 trung đoàn công binh, 1 tiểu đoàn vận tải thuỷ bộ, các kho, xưởng, bệnh viện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao thưởng cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị phòng không và hải quân trong trận đầu ra quân đánh thắng máy bay Mỹ (2 và 5/8/1964).

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao thưởng cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị phòng không và hải quân trong trận đầu ra quân đánh thắng máy bay Mỹ (2 và 5/8/1964).

Vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân được tăng cường một bước so với thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhờ có thêm một phần nguồn tiếp quản của địch ở miền Nam.

Khối các cơ quan, đơn vị đầu mối trực thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật và các ngành, hệ thống học viện, viện, nhà trường quân đội; hệ thống nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất và sửa chữa quốc phòng được điều chỉnh về tổ chức biên chế cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mỗi cơ quan, đơn vị trong tình hình mới.

Chất lượng chính trị là một trong những yếu tố bảo đảm cho các lực lượng vũ trang xây dựng chính quy, hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và tham gia xây dựng kinh tế đất nước theo yêu cầu mới. Đến năm 1976, toàn Đảng bộ quân đội có hơn 3.650 đảng uỷ các cấp, trong đó, số đảng uỷ cơ quan chiếm 15,3%; tổ chức cơ sở đảng có hơn 24.240 chi bộ, riêng số chi bộ ở đơn vị chiến đấu chiếm 46,3%, đảng viên chiếm tỷ lệ 33% tổng quân số. Toàn quân có 2.400 liên chi đoàn và 23.500 chi đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh (sau đổi là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh), tỷ lệ đoàn viên và thanh niên chiếm 75% quân số, là nguồn bổ sung dồi dào vào đội ngũ đảng viên, đội ngũ cán bộ của Đảng từ cơ sở.

Đội ngũ cán bộ quân đội phát triển lên 194.259 người (chiếm 16,5% tổng quân số), trong đó số còn điều kiện để bồi dưỡng sắp xếp công tác là 52.700 đồng chí. Đây là đội ngũ cán bộ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, quân đội và nhân dân, có kinh nghiệm trên các lĩnh vực công tác, nhất là kinh nghiệm chiến đấu, là nhân tố quan trọng để xây dựng quân đội về mọi mặt, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Những tháng cuối năm 1976, đội ngũ cán bộ toàn quân, trong đó các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng và cơ quan quân sự địa phương (tỉnh, thành, huyện) được kiện toàn xong. Số cán bộ còn đủ điều kiện phục vụ quân đội được điều chỉnh lại, thay phiên nhau về các học viện, nhà trường trong nước và đi học tập ở nước ngoài. Các học viện, nhà trường quân đội mới thành lập năm 1976 được bố trí khung cán bộ quản lý, giáo viên đáp ứng nhu cầu bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong thời bình. Đội ngũ cán bộ quân đội được điều chỉnh đã đáp ứng việc xây dựng quân đội từ thời chiến chuyển sang thời bình, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Chỉ trong 4 năm (1954 - 1957), ngành Đường sắt đã khôi phục xong đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Yên Viên - Lào Cai, Văn Điển - Ninh Bình - Hàm Rồng, trong đó có nhiều công trình khó như cầu Việt Trì, cầu Ninh Bình...Trong ảnh: Khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội - Nam Định, ngày 31/12/1955.

Chỉ trong 4 năm (1954 - 1957), ngành Đường sắt đã khôi phục xong đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Yên Viên - Lào Cai, Văn Điển - Ninh Bình - Hàm Rồng, trong đó có nhiều công trình khó như cầu Việt Trì, cầu Ninh Bình...Trong ảnh: Khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội - Nam Định, ngày 31/12/1955.

Hệ thống cơ quan chính trị các cấp trong toàn quân được kiện toàn tổ chức biên chế, đáp ứng với chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tiếp đó, Tổng cục Chính trị kiện toàn tổ chức biên chế Cục Văn hoá, Phòng Quản lý giáo dục, Toà soạn Tạp chí Quân đội nhân dân (nay là Tạp chí Quốc phòng toàn dân), Ban Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị, Ban biên soạn giáo khoa chính trị. Đến thời điểm này, toàn quân có 18 cục chính trị, 116 phòng chính trị, 556 ban chính trị, biên chế 12.942 sĩ quan, hạ sĩ quan chiến sĩ, công nhân viên. Được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phê chuẩn, Tổng cục Chính trị ban hành Quy định nhiệm vụ, chức trách của thủ trưởng chính trị và cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam (gồm 4 tập) thực hiện thống nhất trong toàn quân.

Hưởng ứng phong trào thi đua quyết thắng với khẩu hiệu: “Toàn quân hăng hái thi đua quyết thắng, ra sức xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, xây dựng đất nước, vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân”, do Quân uỷ Trung ương phát động, toàn quân tiến hành huấn luyện theo phương châm: Cơ bản, hệ thống, thống nhất, toàn diện nhằm rèn luyện cho bộ đội bản lĩnh chiến đấu vững vàng, sử dụng thành thạo các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại và tương đối hiện đại của ta, cũng như mới thu được của địch; đồng thời huấn luyện bảo đảm sẵn sàng chiến đấu thường xuyên đối với các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, nhất là đơn vị ở khu vực trọng điểm. Công tác chuẩn bị huấn luyện được triển khai trong toàn quân.

Cùng thời gian này, Bộ Quốc phòng chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh công tác tổng kết kinh nghiệm huấn luyện, chiến đấu trong 30 năm chiến tranh giải phóng chống Pháp và chống Mỹ, sơ kết khoá huấn luyện đầu tiên trong thời bình những tháng cuối năm 1975; đồng thời tập trung biên soạn, chỉnh lý hệ thống tài liệu huấn luyện quân sự thống nhất toàn quân.

Các tổng cục, quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, nhà trường tiến hành tổng kết ở từng cấp. Tổng cục Chính trị hoàn thành tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chuẩn bị tổng kết công tác quan trọng này trong kháng chiến chống Mỹ. Ban Nghiên cứu Lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị sau khi hoàn thành tập I, triển khai nghiên cứu biên soạn Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam tập II trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). Bộ Tổng Tham mưu triển khai nhiều đề tài khoa học về các ngành tham mưu tác chiến, huấn luyện, tổ chức lực lượng, cơ yếu, bản đồ quân sự. Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị hậu cần toàn quân (02/1976) quán triệt chỉ thị của Quân uỷ Trung ương về quản lý vật tư, tài sản, chiến lợi phẩm; đánh giá thành tích của ngành trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bàn phương hướng công tác hậu cần 5 năm (1976-1980).

Với màn thi đấu ngoạn mục, kíp xe số 3 đã mang về huy chương vàng và Cup luân lưu Tank Biathlon 2020 cho đội tuyển xe tăng Việt Nam tại Army Games 2020.

Với màn thi đấu ngoạn mục, kíp xe số 3 đã mang về huy chương vàng và Cup luân lưu Tank Biathlon 2020 cho đội tuyển xe tăng Việt Nam tại Army Games 2020.

Bộ Quốc phòng chỉ đạo Cục Tài chính tổ chức hội nghị tài chính toàn quân (3/1976) tổng kết kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ và bàn công tác tài chính trong tình hình mới với phương hướng, nhiệm vụ của ngành phải bảo đảm tốt nhất cho quân đội thực hiện các nhiệm vụ củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, giải quyết hậu quả chiến tranh, tham gia xây dựng kinh tế. Tổng cục Kỹ thuật lập đề án Khai thác sử dụng trang bị kỹ thuật của quân đội đáp ứng cho những nhu cầu trước mắt và lâu dài của quân đội. Các quân khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng, các học viện, viện, nhà trường quân đội tiến hành thực hiện nhiều đề tài khoa học các cấp phục vụ công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng kinh tế.

Các học viện, nhà trường quân đội kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, cơ sở vật chất, tiếp nhận học viên, chuẩn bị tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kế hoạch được giao. Các học viện, nhà trường đang huấn luyện theo kế hoạch trước đây tiếp tục huấn luyện hết chương trình, không tổ chức cho học viên ra trường sớm như dự định trong chiến tranh. Hệ thống nhà trường ngoài quân đội tiếp nhận học viên do quân đội cử đi học. Ngày 22/6/1976, tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Tổng Tham mưu mở lớp tập huấn cho cán bộ cao cấp, trung cấp toàn quân về tổ chức, phương pháp huấn luyện một số vấn đề về điều lệnh, chiến thuật, kỹ thuật, binh chủng, thể dục thể thao.

Đối với các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu tiến hành huấn luyện theo các nội dung quy định của Bộ, đồng thời căn cứ vào nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, huấn luyện bổ sung những nội dung kỹ thuật, chiến thuật cá nhân và phân đội nhỏ, đẩy mạnh giáo dục chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, tư thế, lễ tiết, tác phong quân nhân. Các đơn vị chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế tổ chức huấn luyện theo ặc điểm nhiệm vụ của đơn vị, chú trọng huấn luyện chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội. Chiến sĩ mới các đơn vị được huấn luyện theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu (11/8/1976). Đây là lần đầu tiên quân đội tuyển quân và huấn luyện một số quân lớn trên phạm vi cả nước và tất cả các đơn vị được huấn luyện theo chương trình thống nhất, gồm cả chính trị, quân sự và hậu cần. Cán bộ các cấp chú trọng huấn luyện tại trường kết hợp với huấn luyện tại chức, học tập bồi dưỡng văn hoá, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, quản lý, chỉ huy bộ đội.

Mùa huấn luyện quân sự năm 1976 kết thúc. Toàn quân cơ bản hoàn thành chương trình, nội dung huấn luyện do Bộ đề ra. Một trong những kết quả nổi bật của công tác huấn luyện là hiện tượng vi phạm kỷ luật quân đội, nhất là những vi phạm nghiêm trọng đã giảm rõ rệt. Bản lĩnh chính trị, trình độ chính quy, hiện đại, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu được nâng cao, bảo đảm cho quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, từ tháng 12/1975, Quốc hội và Chủ tịch nước quyết định bãi bỏ Lệnh tổng động viên cục bộ (ban hành ngày 21/4/1965) để thực hiện tuyển quân thời bình; sửa đổi, bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự (ban hành ngày 10/4/1965). Nhà nước quy định quân nhân dự bị loại 1 (18 đến 35 tuổi) và loại 2 (18 đến 25 tuổi). Lực lượng dự bị động viên được đăng ký, quản lý, huấn luyện và tuyển quân thực hiện theo chế độ thời bình thống nhất trên cả nước. Chế độ phục viên, xuất ngũ, chuyển ngành của quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ phục vụ trong quân đội được thực hiện thống nhất theo luật định hiện hành.

Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính sự nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học. Dân quân tự vệ vừa sản xuất, vừa tham gia công tác quốc phòng, an ninh ở địa phương. Đến cuối năm 1976, hầu hết các phường, khóm ở miền Nam có từ 1 tổ đến 1 tiểu đội du kích, tự vệ. Ở miền Bắc, các huyện Quỳnh Lưu (Nghệ Tĩnh), Nam Ninh (Hà Nam Ninh), Tiền Hải (Thái Bình), Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên (Bắc Thái) được chọn làm thí điểm nghiên cứu xây dựng tổ chức lực lượng dân quân tự vệ phù hợp với quy mô sản xuất công nghiệp và nông nghiệp theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Lực lượng dân quân tự vệ biển được xúc tiến xây dựng ở những địa phương ven biển, trong những ngành và đơn vị hoạt động, sản xuất trên biển.

 Các đồng chí tự vệ Đỏ thuộc Chiến khu Hỏa Quân và Đông Sở trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh

 Các đồng chí tự vệ Đỏ thuộc Chiến khu Hỏa Quân và Đông Sở trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh

Trước yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng kinh tế đất nước trong điều kiện mới, Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một bộ phận lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân tham gia xây dựng kinh tế, góp phần khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân dân, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển kinh tế những năm tiếp theo. Lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế đã hình thành từ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau chiến tranh, Bộ Quốc phòng căn cứ vào quyết nghị của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, căn cứ vào kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980) và những đề xuất của các cơ quan chức năng, chủ yếu của Tổng cục Hậu cần để tổ chức và triển khai lực lượng quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Đến cuối năm 1975, Bộ Quốc phòng đã ấn định 250.000 quân là lực lượng chuyên làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế của quân đội. Các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu cũng tham gia lao động sản xuất phù hợp với đặc điểm từng cơ quan, đơn vị.

Ngày 31/3/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 250/NQ-TW Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xác định: Đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ đất nước, nhiệm vụ xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước là một nhiệm vụ chính trị to lớn hiện nay của quân đội ta; đó là nhiệm vụ của toàn quân. “Cùng với việc thực hiện đầy đủ yêu cầu xây dựng quân đội chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước, phải huy động mọi khả năng về lực lượng, thời gian, vật tư, thiết bị,... của quân đội có thể huy động được để làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế”1. Để phát huy mức cao nhất khả năng lao động sáng tạo của toàn quân trong điều kiện cụ thể, “Quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế theo các quy mô lớn, vừa và nhỏ, phấn đấu theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp cơ giới, nửa cơ giới với thủ công, phấn đấu theo hướng đẩy mạnh cơ giới hoá; làm ở tất cả các vùng, chú trọng những vùng chiến lược quan trọng có nhiều khó khăn trong việc điều động lực lượng lao động tới; tập trung làm những việc lớn có yêu cầu chuyên môn kỹ thuật để có điều kiện nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế và kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ”2.

Quân ủy Trung ương xác định: Các cấp uỷ đảng phải tích cực lãnh đạo quân đội tham gia xây dựng kinh tế trên quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; trên cơ sở đó mà xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng lớn mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang hiện đại. Đây vừa là một nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài của quân đội ta, vừa là một nhiệm vụ thuộc về bản chất của quân đội cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày 19/4/1976, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Bộ Chính trị Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Tại Hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nêu rõ vị trí, mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, quân đội trong thời kỳ mới: Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước là nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, quan trọng bậc nhất. Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ chiến lược cơ bản, rất quan trọng của quân đội. Đại tướng nhấn mạnh: Cán bộ chủ trì, chỉ huy, lãnh đạo và các cấp phải thông suốt nhiệm vụ; cán bộ toàn quân đi đôi với học tập quân sự, nhất thiết phải học tập kinh tế, cán bộ cao cấp mà không hiểu kinh tế thì không bao giờ làm nhiệm vụ của mình tốt được. Nên bản thân quân đội phải mở trường lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý kinh tế và gửi một số sang đào tạo ở các trường của Nhà nước1.

Thực hiện chủ trương của Đảng, các lực lượng vũ trang nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế triển khai xây dựng trên các lĩnh vực, khắp mọi miền và ở hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của đất nước (nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, xây dựng cầu, đường, xây dựng cơ bản công nghiệp và dân dụng...). Các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng do Tổng cục Kỹ thuật quản lý tập trung bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang và dành một phần năng lực để làm một số mặt hàng dân dụng do Nhà nước đặt hàng, góp phần giải quyết khó khăn đời sống của nhân dân và lực lượng vũ trang. Các đơn vị sẵn sàng chiến đấu tận dụng đất đai thuộc diện đơn vị quản lý, đồng thời quan hệ với chính quyền địa phương nơi đóng quân để xin đất tăng gia (trồng trọt, chăn nuôi), tự túc một phần lương thực, thực phẩm cho đơn vị, góp phần cải thiện một bước đời sống của bộ đội.

Nhà máy Thủy điện Thác Bà được khởi công xây dựng ngày 19/8/1964, đến ngày 5/10/1971 khởi động tổ máy số 1 và hòa vào lưới điện quốc gia; sau đó lần lượt các tổ máy số 2 đưa vào vận hành ngày 10/3/1972 và tổ máy số 3 vào ngày 19/5/1972.

Nhà máy Thủy điện Thác Bà được khởi công xây dựng ngày 19/8/1964, đến ngày 5/10/1971 khởi động tổ máy số 1 và hòa vào lưới điện quốc gia; sau đó lần lượt các tổ máy số 2 đưa vào vận hành ngày 10/3/1972 và tổ máy số 3 vào ngày 19/5/1972.

Để đáp ứng yêu cầu quân đội tham gia xây dựng kinh tế ngày càng lớn, ngày 04/5/1976, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP thành lập Tổng cục Xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng, nhiệm vụ giúp Bộ Quốc phòng lập kế hoạch và chỉ đạo lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế; xây dựng các đơn vị chuyên làm kinh tế; thay mặt Bộ Quốc phòng quan hệ với các cơ quan ngoài quân đội; chấp hành các chế độ kinh doanh, hạch toán kinh tế, các chính sách của Nhà nước và quân đội. Cơ cấu tổ chức cơ quan Tổng cục Xây dựng kinh tế và các đầu mối trực thuộc Tổng cục được xây dựng trên cơ sở cơ quan và đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh 559, một số đơn vị thuộc Tổng cục Hậu cần và Bộ Tư lệnh Công binh.

Bộ Quốc phòng quy định cấp quân khu được tổ chức cục xây dựng kinh tế; các quân chủng, binh chủng và tỉnh có lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế được tổ chức phòng hoặc ban xây dựng kinh tế. Lực lượng chuyên trách xây dựng kinh tế của toàn quân đến cuối năm 1976 được tổ chức thành 30 đoàn tương đương sư đoàn và 241 đoàn tương đương trung đoàn trực thuộc các quân khu, Quân chủng Hải quân, Tổng cục Hậu cần và Tổng cục Xây dựng kinh tế. Các đơn vị xây dựng kinh tế của quân đội khẩn trương và đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng kinh tế do Chính phủ giao trong kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980):

1- Xây dựng các khu kinh tế nông nghiệp với diện tích 40 vạn hécta, gồm các khu chuyên canh cây công nghiệp, cây lương thực ở Hà Tiên, Đồng Tháp Mười, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Thuận Hải.
2- Trồng rừng, khai thác gỗ, kinh doanh tổng hợp về lâm nghiệp ở Gia Nghĩa, Kông Hà Nừng, nam Long Đại, tây Nghệ An, sông Đà, khu nguyên liệu giấy Hàm Yên - Bắc Quang, khu lâm nghiệp Hắc Xam ở miền núi phía Tây Bắc.
3- Làm đường sắt Thống nhất đoạn từ Minh Cầm đến Tiên An thuộc Quảng Bình - Quảng Trị, tiếp tục làm
đường ở phía nam Trường Sơn và giúp Lào làm các đường số 7, 8, 9.
4- Xây dựng công trình công nghiệp và dân dụng ở mỏ apatít Lào Cai, khu mỏ Quảng Ninh, thuỷ điện Hoà Bình, khu nhà ở tại Xuân Mai và Hà Nội.
5- Sản xuất vật liệu xây dựng.
6- Đánh bắt và nuôi trồng hải sản, kết hợp với bảo vệ vùng biển, nuôi tôm xuất khẩu ở Năm Căn.

Để duy trì một đội quân thường trực mạnh thời bình, phù hợp khả năng kinh tế và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, Bộ Quốc phòng chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu và lực lượng dân quân, du kích, tự vệ rộng rãi. Như vậy, cùng với việc xây dựng về mặt chính trị, việc chấn chỉnh, kiện toàn cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, một trong những công tác quân sự sau Đại thắng mùa Xuân 1975, từ thời chiến chuyển sang thời bình đã tạo ra những nhân tố quan trọng để tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Quân và dân cả nước nỗ lực phấn đấu thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng, các chỉ tiêu trong năm đầu (1976) của kế hoạch nhà nước 5 năm (1976-1980), tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng1, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng ở mỗi địa phương và trên quy mô toàn quốc. Các lực lượng vũ trang, quân đội nhân dân tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt do Quân ủy Trung ương đề ra, đẩy mạnh giáo dục, huấn luyện chính trị, quân sự, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, khẩn trương triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế, kết hợp chặt chẽ quốc phòng với kinh tế, góp phần tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trong kế hoạch nhà nước 5 năm 1976-1980 có nhiệm vụ phát triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhằm xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động. Trên cơ sở đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân. Nhiệm vụ hàng đầu trong 5 năm là tập trung cao độ sức mạnh tổng hợp của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (cả tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng, cải thiện một bước đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong ba năm (1955-1957), miền Bắc đã khôi phục hầu hết các xí nghiệp quan trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp cũ không những được phục hồi, mà còn tăng thêm trang thiết bị hiện đại; đồng thời với xây dựng thêm nhiều cơ sở công nghiệp mới. Trong ảnh: Khu công nghiệp Việt Trì là khu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam, được khởi công xây dựng năm 1957, khánh thành năm 1962, bao gồm các nhà máy sản xuất giấy, chè, bột ngọt…

Trong ba năm (1955-1957), miền Bắc đã khôi phục hầu hết các xí nghiệp quan trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp cũ không những được phục hồi, mà còn tăng thêm trang thiết bị hiện đại; đồng thời với xây dựng thêm nhiều cơ sở công nghiệp mới. Trong ảnh: Khu công nghiệp Việt Trì là khu công nghiệp đầu tiên của Việt Nam, được khởi công xây dựng năm 1957, khánh thành năm 1962, bao gồm các nhà máy sản xuất giấy, chè, bột ngọt…

Thực hiện quyết định của Đảng và Nhà nước, các tỉnh, thành phố trong cả nước đã từng bước được quy hoạch lại, đáp ứng yêu cầu xây dựng bộ máy nhà nước từ trung ương xuống các địa phương phù hợp với phương hướng xây dựng, phát triển cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kinh tế với quốc phòng, với phương châm xây dựng tỉnh, thành phố thành đơn vị chiến lược về kinh tế và quốc phòng, xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp và pháo đài quân sự.

Nền kinh tế cả nước và từng địa phương tuy còn rất khó khăn do điểm xuất phát và trình độ phát triển thấp, nhưng bước đầu đã có những cơ sở vật chất nhất định, gồm những cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, truyền thanh, y tế, giáo dục, nghiên cứu khoa học. Sự phân bố dân cư, các cơ sở kinh tế ở từng địa phương cũng như trên cả nước cho phép xây dựng hậu phương tại chỗ và hậu phương quốc gia, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tăng cường tiềm lực mọi mặt của đất nước, của mỗi địa phương, của nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Phương châm xây dựng huyện vững mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; lấy huyện làm địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động một cách cụ thể và kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công nhân với nông dân trở thành điều kiện cơ bản để kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng huyện thành pháo đài quân sự trong nền quốc phòng toàn dân.

Bộ máy lãnh đạo, chính quyền, tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang, cơ cấu kinh tế bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, cơ cấu cơ sở vật chất của sản xuất, y tế, giáo dục, văn hoá, quốc phòng trên địa bàn huyện, bảo đảm cho huyện có đủ khả năng và điều kiện thực hiện kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng.

Thực hiện sự kết hợp đó, các huyện đều chú trọng chỉ đạo, quản lý thống nhất và tập trung, thực hiện ngay từ khi xác định kế hoạch xây dựng huyện về mọi mặt, bao gồm cả lĩnh vực quân sự, quốc phòng trong việc phân bố lao động và tổ chức lực lượng vũ trang, trong tổ chức bố trí các cơ sở sản xuất và quân sự. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trên địa bàn huyện trở thành một biện pháp chiến lược để vừa đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, vừa tăng cường sức mạnh quốc phòng, “xây dựng huyện thành pháo đài quân sự”.

Trải qua hai thời kì: Khôi phục kinh tế (1955 - 1957) và kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), miền Bắc đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn để khôi phục và phát triển sản xuất, mọi mặt đời sống xã hội nhân dân có nhiều chuyển biến lớn lao. Trong ảnh: Cửa hàng mua vịt quay huyện Quảng Yên, tỉnh Cao Bằng mỗi phiên chợ mua trung bình từ 1500kg đến 2000kg vịt sống; hằng năm cung cấp cho nội địa và xuất khẩu trên 100 tấn vịt sống.

Trải qua hai thời kì: Khôi phục kinh tế (1955 - 1957) và kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), miền Bắc đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn để khôi phục và phát triển sản xuất, mọi mặt đời sống xã hội nhân dân có nhiều chuyển biến lớn lao. Trong ảnh: Cửa hàng mua vịt quay huyện Quảng Yên, tỉnh Cao Bằng mỗi phiên chợ mua trung bình từ 1500kg đến 2000kg vịt sống; hằng năm cung cấp cho nội địa và xuất khẩu trên 100 tấn vịt sống.

Các địa phương (tỉnh, thành phố, huyện, thị xã, quận) đẩy mạnh xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội, kết hợp củng cố quốc phòng - an ninh, theo kế hoạch chiến lược thống nhất. Những tiềm năng mới của nền quốc phòng toàn dân từng bước được tạo ra theo mô hình xây dựng của mỗi địa phương trong quy hoạch tổng thể của cả nước. Thế chiến lược phòng thủ đất nước tiếp tục được điều chỉnh, tăng cường, trong đó hệ thống bố trí của quân đội nhân dân trên cả nước được kết hợp chặt chẽ với hệ thống bố trí của mỗi địa phương. Mỗi địa phương (tỉnh, thành phố, huyện, thị xã, quận) trong nền quốc phòng toàn dân trở thành một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ của quân khu và cả nước. Xây dựng tỉnh với cơ cấu công - nông nghiệp thành đơn vị chiến lược về kinh tế quốc phòng, xây dựng huyện với cơ cấu nông - công nghiệp thành pháo đài quân sự chính là biểu hiện tập trung của sự kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, tạo nên một trong những tiềm lực hàng đầu của nền quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nhằm đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976), nêu rõ: “tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Sức mạnh quốc phòng của nhân dân ta là sức mạnh của đường lối chính trị, quân sự của Đảng, là sức mạnh tổng hợp, toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu”1.

Đại hội đã quyết nghị những vấn đề cơ bản về đường lối quân sự, đường lối quốc phòng và đường lối chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc do Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, do các ban, ngành của Đảng và Nhà nước, nòng cốt do các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng nghiên cứu và đề xuất từ sau Đại thắng mùa Xuân 1975. Những vấn đề quân sự - quốc phòng được thể hiện nổi bật với các quan điểm: Xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, coi đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Có thể thấy, sức mạnh quốc phòng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sức mạnh toàn diện, sức mạnh tổng hợp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân, có lực lượng thường trực mạnh và lực lượng hậu bị rộng rãi. Lực lượng vũ trang có hai nhiệm vụ là luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và tích cực tham gia xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ quân đội xây dựng kinh tế. Ra sức phát triển công nghiệp quốc phòng, chú trọng hiện đại hoá lực lượng quốc phòng và khả năng phòng thủ của đất nước.

Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn.

Chiều 30/4/1975, chính quyền Ngụy tại thị xã Rạch Giá, tỉnh Rạch Giá (nay là thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đầu hàng cách mạng không điều kiện. Đến sáng sớm ngày 1/5, các địa bàn còn lại của tỉnh như Tân Hiệp, Vĩnh Thuận, Gò Quao… cũng đã được giải phóng hoàn toàn.

Sang năm 1977, cùng với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, quân và dân ta đẩy mạnh công cuộc củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại. Nội dung chủ yếu là: Cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, nâng cao chất lượng chiến đấu, xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất, xây dựng kinh tế; tích cực tham gia xây dựng lực lượng sản xuất theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.

Những tháng đầu năm 1977, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được đẩy mạnh. Các lực lượng vũ trang tiếp tục được chấn chỉnh về tổ chức biên chế, điều chỉnh quân số, triển khai thế bố trí trên các địa bàn chiến lược, phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đối với nhiệm vụ xây dựng kinh tế, các lực lượng vũ trang nhân dân đã đạt được những kết quả khích lệ trên mặt trận xây dựng kinh tế. Các đơn vị chuyên trách xây dựng kinh tế của quân đội nỗ lực lao động sản xuất, đã hình thành 8 vùng chuyên canh nông nghiệp, 4 vùng lâm nghiệp, 2 cơ sở đánh bắt hải sản; đồng thời huy động một bộ phận lực lượng tham gia xây dựng các công trình công nghiệp trọng điểm (Nhà máy thủy điện Hòa Bình, Khu mỏ Quảng Ninh, phục vụ khai thác dầu khí ở vùng biển phía Nam, làm đường bộ và đường sắt Thống nhất Bắc - Nam, đường Trường Sơn, giúp bạn Lào xây dựng đường số 7...).

Những nỗ lực của các lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã cùng cả nước khắc phục hậu quả chiến tranh, giảm ngân sách quốc phòng, đặc biệt là góp phần thực hiện chủ trương phân bố lại lực lượng sản xuất, phân bố dân cư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và ở mỗi địa phương, đặc biệt trên các vùng, miền, địa bàn chiến lược, biên giới, biển đảo, tăng cường thế chiến lược phòng thủ đất nước, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Những thành tựu bước đầu về xây dựng kinh tế của các lực lượng vũ trang nhân dân đã góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước so với những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ngày 21/02/1977, Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc: “Tăng cường lãnh đạo công tác quân sự địa phương trong giai đoạn mới”. Tiếp theo, ngày 06/3/1977, Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết “Về phương hướng nhiệm vụ quân sự năm 1977”. Đánh giá thành tựu bước đầu đạt được về củng cố quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ trang, Quân uỷ Trung ương nêu rõ: Thực hiện nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình, các lực lượng vũ trang đã bước đầu tăng cường phòng thủ, sẵn sàng chiến đấu ở các khu vực trọng điểm, bắt đầu chuyển hướng các mặt công tác và xây dựng lực lượng, huấn luyện bộ đội và bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu và tổng kết, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, bảo đảm hậu cần và tích cực giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Nhiệm vụ xây dựng kinh tế được nhanh chóng quán triệt và triển khai thực hiện trong toàn quân.

Sáng 30/4/1975, từ khắp mọi hướng, hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp cùng bộ binh đồng loạt thẳng tiến Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng Sài Gòn. Ảnh: Mai Hưởng - TTXVN

Sáng 30/4/1975, từ khắp mọi hướng, hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp cùng bộ binh đồng loạt thẳng tiến Phủ Tổng thống Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng Sài Gòn. Ảnh: Mai Hưởng - TTXVN

Quân giải phóng đánh chiếm trường Thiết giáp ngụy tại căn cứ Nước Trong (Biên Hoà). Ảnh: Hứa Kiểm - TTXVN

Quân giải phóng đánh chiếm trường Thiết giáp ngụy tại căn cứ Nước Trong (Biên Hoà). Ảnh: Hứa Kiểm - TTXVN

Trong những năm đầu Tổ quốc thống nhất, trên cơ sở phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, triển khai thế bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế đất nước, kết hợp kinh tế với quốc phòng, tạo cơ sở để tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

Công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang và quân đội nhân dân trong bước khởi đầu sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước đã đạt được những kết quả quan trọng. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng trên cơ sở nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, không ngừng khắc phục khó khăn, nâng cao ý thức trách nhiệm và nỗ lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân. Thành tựu xây dựng đất nước trong những năm đầu Tổ quốc thống nhất đã đạt được trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, quốc phòng, an ninh đã tạo nên những tiềm năng mới cho đất nước. Tiềm lực quân sự, quốc phòng, sức mạnh tổng hợp, toà diện của nền quốc phòng toàn dân được nâng cao, gắn liền với sự phát triển của đất nước.

Bộ đội tên lửa những ngày đánh trận Điện Biên Phủ trên không

Bộ đội tên lửa những ngày đánh trận Điện Biên Phủ trên không

Chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân được nâng cao, đáp ứng vai trò làm lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Quân đội nhân dân đã tiến hành kiện toàn, củng cố tổ chức biên chế, điều chỉnh thế bố trí chiến lược, tăng cường phòng thủ đất nước, xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, hiện đại, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ quân sự cần kíp trước mắt, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, góp phần xây dựng đất nước.

Công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm đầu đất nước thống nhất đã để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc. Trên lĩnh vực quân sự - quốc phòng, việc quán triệt đường lối và nhiệm vụ cách mạng, đường lối và nhiệm vụ quân sự, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và lực lượng vũ trang còn chưa sâu sắc, chưa theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của tình hình cách mạng. Sự chuyển hướng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân của các cấp, các bộ, ban, ngành có mặt còn chậm. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trên quy mô cả nước và trên mỗi vùng, miền, địa phương theo kế hoạch thống nhất còn gặp nhiều khó khăn, chưa tạo được sự phát triển đồng đều trong toàn quốc. Nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân từ trạng thái thời chiến chuyển sang thời bình còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải quyết mới đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy những thành tựu bước đầu đạt được, quân và dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh xây dựng đất nước về mọi mặt, trong đó tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân theo hướng chính quy, hiện đại; đồng thời tạo ra thế và lực mới cho quân và dân ta tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

SÁCH LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM - TẬP 13
Trình bày: Phi Nguyen
Ảnh: TTXVN, Báo Nhân Dân