Trong kỷ nguyên số, khi dữ liệu trở thành “tài sản quốc gia”, bảo vệ an ninh mạng cũng đồng nghĩa với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Với chính sách, hạ tầng, nhân lực và doanh nghiệp chủ lực, Việt Nam đang từng bước xây dựng nền công nghiệp an ninh mạng tự chủ, hiện thực hóa mục tiêu độc lập, tự chủ, phát triển bền vững gắn liền với bảo đảm an ninh trên không gian mạng.

Chủ quyền số - trụ cột bảo đảm an ninh quốc gia trong kỷ nguyên dữ liệu

Trong kỷ nguyên dữ liệu và kết nối toàn cầu, chủ quyền quốc gia không chỉ được xác định bằng đường biên giới, lãnh thổ hay vùng biển, mà còn mở rộng tới không gian số, nơi dữ liệu, thông tin và hạ tầng công nghệ cũng trở thành “lãnh thổ” của mỗi quốc gia.

Đồng chí Phạm Đại Dương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho rằng, chuyển đổi số gắn bó mật thiết với nhiều lĩnh vực như Chính phủ số, kinh tế số… Trong đó, dữ liệu là yếu tố rất quan trọng, được ví như tài sản quốc gia; bảo mật dữ liệu có ý nghĩa tương tự với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên biển và đất liền.

Từ tinh thần đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia được ví như “kim chỉ nam” cho giai đoạn phát triển mới. Nghị quyết xác định: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nhân tố then chốt quyết định sự phát triển của quốc gia, là động lực bứt phá trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

“Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên số, mà đã nói đến ‘số’ thì phải nói đến dữ liệu. Trong kinh tế, số được coi là một lực lượng sản xuất mới, đóng góp vào tăng trưởng. Trong quản trị quốc gia, dữ liệu số được coi là tài nguyên và là tài sản của quốc gia. Do vậy, việc bảo vệ chủ quyền số, bảo vệ an ninh số, bảo vệ dữ liệu là yếu tố hết sức quan trọng”, đồng chí Phạm Đại Dương nhấn mạnh.

Theo Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, bảo đảm an ninh mạng và an ninh dữ liệu đòi hỏi chuyển từ tư duy phòng thủ bị động sang chủ động nhận diện sớm rủi ro, chủ động phòng ngừa và ứng phó. Cùng với hạ tầng kỹ thuật, hệ thống pháp luật cũng là “lá chắn mềm” cho không gian mạng. Các đạo luật như Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật An toàn thông tin mạng… đang được rà soát, bổ sung để theo kịp tốc độ phát triển công nghệ.

Đồng chí Phạm Đại Dương cho rằng, để làm chủ công nghệ và bảo đảm an ninh số, nguồn nhân lực chất lượng cao và sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị là yếu tố quyết định: “Từ nhà quản lý, doanh nghiệp đến mỗi người dân đều phải có ý thức trong việc bảo đảm an toàn, an ninh số. Doanh nghiệp chính là động lực quan trọng nhất trong phát triển công nghệ và chuyển đổi số quốc gia”.

Từ nhà quản lý, doanh nghiệp đến mỗi người dân đều phải có ý thức trong việc bảo đảm an toàn, an ninh số.

-
Đồng chí Phạm Đại Dương

Những “điểm yếu” dễ tổn thương trong không gian mạng Việt Nam

Nếu chủ quyền số là lá chắn bảo vệ quốc gia trên không gian mạng, thì thực tế lại cho thấy tấm lá chắn ấy đang chịu áp lực ngày càng lớn. Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia bị tấn công mạng nhiều nhất khu vực.

Theo Trung tướng Nguyễn Minh Chính, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội An ninh mạng quốc gia, nguy cơ lớn nhất không chỉ đến từ bên ngoài: “Bất kỳ lỗ hổng nào trong an ninh mạng đều nguy hiểm, hậu quả khó lường. Chúng ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, từ việc đánh cắp dữ liệu, mã hóa đòi tiền chuộc, đến tội phạm công nghệ cao và thông tin giả gây chia rẽ xã hội”.

Bất kỳ lỗ hổng nào trong an ninh mạng đều nguy hiểm, hậu quả khó lường.

Trung tướng Nguyễn Minh Chính

Cùng với sự phát triển nhanh của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, các hình thức tấn công ngày càng tinh vi hơn. Cùng với đó, việc phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài khiến nguy cơ mất an ninh, an toàn mạng trở nên nghiêm trọng hơn.

“Phần lớn hệ thống kỹ thuật hiện nay chưa do Việt Nam làm chủ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn, mất kiểm soát. Ngoài ra, việc thiếu đồng bộ trong phối hợp giữa các cơ quan, doanh nghiệp, lực lượng chuyên trách cũng làm giảm hiệu quả ứng phó khi xảy ra sự cố”, Trung tướng Nguyễn Minh Chính chỉ rõ.

Từ góc nhìn kỹ thuật, ông Vũ Ngọc Sơn, Trưởng Ban Nghiên cứu, tư vấn phát triển công nghệ và hợp tác quốc tế (Hiệp hội An ninh mạng quốc gia) bổ sung: “Các tổ chức tài chính, ngân hàng đang là những ‘đích ngắm’ hàng đầu của tội phạm mạng xuyên biên giới. Dù đầu tư nhiều cho công nghệ, nhưng hệ thống được xây dựng qua hàng chục năm, nhiều phần đã lỗi thời, thiếu cập nhật; cộng thêm yếu tố con người và quy trình vận hành khiến nguy cơ tấn công luôn hiện hữu”.

Theo ông Sơn, ngoài công nghệ, yếu tố con người chính là “mắt xích dễ tổn thương nhất”. Chỉ cần một vị trí bị khai thác, toàn bộ hệ thống có thể bị xâm nhập. Bên cạnh đó, áp lực chuyển đổi số nhanh khiến nhiều quy trình nội bộ chưa kịp điều chỉnh, tạo thêm khoảng trống cho tin tặc.

Ngoài công nghệ, yếu tố con người chính là “mắt xích dễ tổn thương nhất”. Chỉ cần một vị trí bị khai thác, toàn bộ hệ thống có thể bị xâm nhập.

Ông Vũ Ngọc Sơn

Thực tế, theo Báo cáo tổng kết an ninh mạng Việt Nam năm 2024 do Hiệp hội An ninh mạng quốc gia công bố, năm 2024 cả nước ghi nhận hơn 659.000 vụ tấn công mạng. Còn báo cáo của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (A05), Bộ Công an cho hay, chỉ tính riêng các đơn vị trọng yếu đã có tới hơn 74.000 cảnh báo tấn công mạng, trong đó có 83 chiến dịch tấn công có chủ đích APT.

Khảo sát của Hiệp hội An ninh mạng quốc gia từ khu vực người dùng cá nhân cũng cho thấy, cứ 220 người dùng thì có 1 người là nạn nhân của lừa đảo trực tuyến, với tỷ lệ 0,45%. Tổng thiệt hại do lừa đảo trực tuyến gây ra trong năm 2024 ước tính lên tới gần 19.000 tỷ đồng.

Các chuyên gia cảnh báo, nếu không có giải pháp tổng thể, những “vết nứt” trong không gian mạng có thể trở thành “điểm yếu chiến lược”, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển đổi số và an ninh quốc gia, và nếu không nâng cao năng lực phòng thủ chủ động, chi phí khắc phục sự cố an ninh mạng sẽ còn cao gấp nhiều lần chi phí đầu tư phòng ngừa.

Xây dựng nền tảng an ninh mạng “Make in Vietnam”

Từ thực tiễn gia tăng tấn công mạng, yêu cầu “chuyển từ phòng thủ bị động sang chủ động bảo vệ không gian mạng” đã trở thành định hướng xuyên suốt.

Trung tướng Nguyễn Minh Chính cho rằng, với đặc thù gắn liền với bảo mật và tính tự chủ rất cao, công nghiệp an ninh mạng không chỉ cần công nghệ mà còn phải có cơ chế và hạ tầng phù hợp. Nhà nước cần đóng vai trò kiến tạo, xây dựng được cơ chế, sân chơi, thị trường và giao nhiệm vụ cụ thể cho các doanh nghiệp chủ lực để phát triển sản phẩm phục vụ bảo đảm an ninh quốc gia.

Ông cho rằng, những sản phẩm này hoàn toàn có thể “lưỡng dụng”, tức vừa phục vụ quốc phòng-an ninh, vừa mở rộng thương mại cho xã hội dân sự; hoặc các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp công nghệ lớn) có thể phát triển dựa trên cơ chế, chính sách, hạ tầng dùng chung của Nhà nước.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Đức Dũng, Giám đốc điều hành Techcity cho rằng, việc phát triển các giải pháp an ninh mạng “Make in Vietnam” không chỉ là mục tiêu công nghệ, mà còn là một phần trong chiến lược bảo vệ chủ quyền số quốc gia.

ndo_tr_z7049219853094-cdd3175cc69ef721c8926b4b57b11782.jpg

Phát triển các giải pháp an ninh mạng “Make in Vietnam” không chỉ là mục tiêu công nghệ, mà còn là một phần trong chiến lược bảo vệ chủ quyền số quốc gia.

Ông Nguyễn Đức Dũng, CEO Techcity

“Trong kỷ nguyên dữ liệu, ‘chủ quyền số’ chính là khả năng làm chủ hạ tầng, công nghệ và dữ liệu của chính mình. Các giải pháp Make in Vietnam giúp Việt Nam tự chủ trong việc xử lý, lưu trữ và bảo vệ dữ liệu, đồng thời dễ dàng tùy biến theo bối cảnh và quy định của thị trường trong nước”, CEO Techcity nhấn mạnh.

Theo ông Dũng, việc đầu tư phát triển công nghệ nội địa cũng tạo ra một hệ sinh thái doanh nghiệp an ninh mạng mạnh hơn, thúc đẩy nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao. Tuy nhiên, ông cho rằng đây là cuộc đầu tư dài hơi, đòi hỏi sự kiên trì và kết hợp hài hòa giữa công nghệ trong nước với các chuẩn mực quốc tế.

“Ngành công nghệ số, đặc biệt là an ninh mạng, yêu cầu đầu tư dài hạn và nguồn lực lớn. Vì vậy, việc sử dụng kết hợp các giải pháp quốc tế là cần thiết, miễn là nhà cung cấp có độ tin cậy cao và tuân thủ tiêu chuẩn bảo mật quốc tế”, ông Dũng nói thêm.

Cũng đề cập vấn đề này, ông Nguyễn Lê Thành, Chủ tịch điều hành Công ty bảo mật Verichains nhấn mạnh rằng: Bảo vệ chủ quyền số không chỉ là tự sản xuất công nghệ, mà là khả năng kiểm soát được công nghệ mình đang sử dụng.

Theo ông Thành, trong thực tế, các hệ thống công nghệ phức tạp đều có sự phụ thuộc nhất định vào các bên thứ 3, và nguy cơ lớn nhất chính là khi các thành phần phụ thuộc đó không thể kiểm soát.

“Không ai có thể tự chủ 100%, nhưng ít nhất phải hiểu rõ rủi ro đi kèm và có phương án kiểm soát. Dù mua phần mềm hay thiết bị, chúng ta phải biết cách sử dụng, giám sát, phát hiện bất thường và chủ động ngăn chặn sự cố”, ông nói.

Ở cấp độ quốc gia, ông cho rằng lĩnh vực bảo mật và an ninh mạng là một trong những ngành có tính khả thi cao nhất để Việt Nam vươn lên làm chủ, bởi chúng ta đang sở hữu đội ngũ kỹ sư an toàn thông tin có năng lực tốt hơn nhiều nước trong khu vực.

“Ngành bảo mật, an ninh mạng cần tri thức và kinh nghiệm - điều mà Việt Nam đang có lợi thế. Đây là lĩnh vực có thể tạo ra năng lực cạnh tranh quốc tế và cũng có tính khả thi cao hơn nhiều so với ngành khác, vì trong khu vực nói chung, Việt Nam là quốc gia có nhân sự an toàn thông tin và an ninh mạng có chất lượng tốt hơn hẳn so với nhiều nước”, ông Thành chia sẻ.

Ngành bảo mật, an ninh mạng là lĩnh vực có thể tạo ra năng lực cạnh tranh quốc tế và cũng có tính khả thi cao hơn nhiều so với ngành khác.

- Ông Nguyễn Lê Thành, Chủ tịch điều hành Verichains

Cũng phân tích về yếu tố con người, ông Vũ Ngọc Sơn, Trưởng Ban Nghiên cứu, tư vấn phát triển công nghệ và hợp tác quốc tế, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia nhấn mạnh, cuộc chiến trên không gian mạng không chỉ là cuộc chiến công nghệ, mà là cuộc chiến giữa con người với con người.

“Công nghệ tốt là điều kiện cần, nhưng yếu tố quyết định vẫn là con người - từ người lãnh đạo cho đến cán bộ kỹ thuật và người sử dụng cuối cùng”, chuyên gia an ninh mạng này khẳng định.

Cuộc chiến trên không gian mạng không chỉ là cuộc chiến công nghệ, mà là cuộc chiến giữa con người với con người.

Chuyên gia Vũ Ngọc Sơn

Theo ông Vũ Ngọc Sơn, để bảo vệ chủ quyền số, Việt Nam cần phát triển đồng bộ 3 trụ cột:

Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý, đặc biệt là việc hợp nhất và cụ thể hóa Luật An ninh mạng năm 2018 và Luật An toàn thông tin mạng năm 2015.

Thứ 2, ưu tiên ứng dụng và phát triển công nghệ trong nước, thúc đẩy thị trường sản phẩm an ninh mạng “Make in Vietnam”, giúp hình thành ngành công nghiệp an ninh mạng.

Thứ 3, đào tạo và nâng cao nhận thức con người, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia và người dùng - “những mắt xích cuối cùng” của chuỗi an ninh mạng.

“Chúng ta phải song song phát triển và bảo vệ. Không thể đợi ‘mất bò mới lo làm chuồng’ mà phải làm 2 việc cùng lúc - vừa phát triển, vừa phải xây dựng hàng rào, giải pháp bảo vệ”, chuyên gia Vũ Ngọc Sơn khẳng định.

Ông Vũ Ngọc Sơn nói về tầm quan trọng của nền tảng an ninh mạng “Make in Vietnam”. Video: LÊ CHÍ - TRUNG HƯNG

Ông Vũ Ngọc Sơn nói về tầm quan trọng của nền tảng an ninh mạng “Make in Vietnam”. Video: LÊ CHÍ - TRUNG HƯNG

Tiêu chuẩn ninh mạng quốc gia - nền tảng kỹ thuật cho chủ quyền số

Song song với phát triển công nghệ và thị trường, việc chuẩn hóa khung kỹ thuật quốc gia về an ninh mạng cũng được coi là một bước tiến quan trọng để củng cố nền tảng tự chủ.

Theo đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ, bộ Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14423:2025 - “An ninh mạng - Yêu cầu đối với hệ thống thông tin quan trọng” vừa được ban hành là bộ tiêu chuẩn kỹ thuật đầu tiên của Việt Nam quy định chi tiết các yêu cầu bảo đảm an ninh mạng cho hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước và các hệ thống trọng yếu về an ninh quốc gia.

TCVN 14423:2025 là bộ tiêu chuẩn kỹ thuật đầu tiên của Việt Nam quy định các yêu cầu bảo đảm an ninh mạng cho hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước và các hệ thống trọng yếu về an ninh quốc gia.

Theo đó, TCVN 14423:2025 giúp chuẩn hóa các yêu cầu kỹ thuật, quy trình bảo vệ, giám sát, ứng phó và kiểm định an ninh mạng; tăng cường năng lực phòng thủ chủ động cho các cơ quan, tổ chức, nhất là trong các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, an ninh, tài chính-ngân hàng, năng lượng, viễn thông, giao thông và hạ tầng số quốc gia.

Đồng thời, hỗ trợ lực lượng chuyên trách an ninh mạng, tạo nền tảng kỹ thuật thống nhất phục vụ công tác giám sát, ứng phó và đánh giá an toàn thông tin ở phạm vi quốc gia. Qua đó, TCVN 14423:2025 góp phần củng cố năng lực tự chủ, an toàn và bền vững cho không gian mạng Việt Nam.

Tiêu chuẩn này quy định cụ thể các yêu cầu về quản lý rủi ro an ninh mạng, kiểm thử xâm nhập (penetration testing), quản lý tài sản phần cứng/phần mềm và quản lý lỗ hổng bảo mật - những nội dung lần đầu tiên được đưa vào khung tiêu chuẩn quốc gia, giúp nâng cao tính thực hành, tính khả thi và hiệu quả trong triển khai bảo đảm an ninh mạng tại các cơ quan, tổ chức.

Bộ tiêu chuẩn cũng được hài hòa với các chuẩn mực quốc tế như ISO/IEC 27002:2022, CIS Critical Security Controls v8 và NIST SP 800-53 (Hoa Kỳ), bảo đảm khả năng hội nhập và hợp tác kỹ thuật xuyên biên giới.

“TCVN 14423:2025 đóng vai trò cầu nối giữa khung pháp lý quốc gia và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào mạng lưới an ninh mạng khu vực và thế giới, đồng thời khẳng định vị thế và uy tín quốc gia trong không gian mạng toàn cầu”, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, an ninh mạng cũng là một trong 11 công nghệ chiến lược được Chính phủ định hướng phát triển với 2 sản phẩm: Giải pháp tường lửa, phát hiện và ngăn chặn xâm nhập; và hệ thống bảo đảm an ninh cho hạ tầng trọng yếu, cơ sở dữ liệu quốc gia.

Ông Hoàng Long, Trưởng Ban Công nghệ thông tin Tập đoàn Viettel cho biết: Việc Chính phủ xác định an ninh mạng là một trong 11 công nghệ chiến lược quốc gia thể hiện tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết trong bối cảnh bảo vệ chủ quyền số trở thành yêu cầu sống còn. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực nhiều thách thức khi Việt Nam đặt mục tiêu làm chủ công nghệ lõi.

Theo ông Long, khoảng cách công nghệ giữa Việt Nam và các tập đoàn toàn cầu vẫn còn đáng kể, đặc biệt trong các công nghệ phát hiện mối đe dọa chủ động, trí tuệ nhân tạo ứng dụng trong phòng thủ mạng hay các giải pháp tự động hóa an ninh. Bên cạnh đó, nguồn lực nghiên cứu-phát triển (R&D) trong nước còn hạn chế, trong khi chi phí đầu tư lớn và việc thu hút chuyên gia hàng đầu gặp nhiều khó khăn.

Hệ sinh thái an ninh mạng nội địa vẫn thiếu các đối tác công nghệ, dữ liệu huấn luyện và môi trường thử nghiệm quy mô lớn, khiến việc hoàn thiện sản phẩm, giải pháp phải phụ thuộc phần nào vào linh kiện và phần cứng nhập khẩu. Thị trường trong nước cũng cần thời gian để thay đổi tâm lý “chuộng thương hiệu ngoại”, gia tăng niềm tin đối với sản phẩm nội địa.

Dù vậy, năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam đã có bước tiến đáng kể. Nhiều đơn vị trong nước đã làm chủ được công nghệ lõi, có khả năng phát triển và vận hành các nền tảng an ninh mạng phức tạp, đã được chứng minh qua nhiều dự án thực tế.

Lợi thế nằm ở việc hiểu rõ đặc thù thị trường, pháp lý và nhu cầu người dùng, cho phép sản phẩm Việt Nam linh hoạt tùy biến, phản ứng nhanh và hỗ trợ tốt bằng tiếng Việt, trong khi chi phí lại cạnh tranh.

Trưởng Ban Công nghệ thông tin của Tập đoàn Viettel nhận định: “Với tốc độ phát triển như hiện nay và sự đồng hành của Nhà nước, các doanh nghiệp an ninh mạng Việt Nam hoàn toàn có thể thu hẹp khoảng cách công nghệ với thế giới trong 5 đến 10 năm tới”.

Với tốc độ phát triển như hiện nay và sự đồng hành của Nhà nước, các doanh nghiệp an ninh mạng Việt Nam hoàn toàn có thể thu hẹp khoảng cách công nghệ với thế giới trong 5 đến 10 năm tới.

Ông Hoàng Long, Trưởng Ban Công nghệ thông tin, Tập đoàn Viettel

Đề cập ý nghĩa của các nền tảng an ninh mạng “Make in Vietnam”, ông Long nhấn mạnh, đây không chỉ là vấn đề công nghệ, mà còn liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia và chủ quyền dữ liệu.

Khi tự chủ về nền tảng, Việt Nam có thể kiểm soát mã nguồn, tránh nguy cơ backdoor, chủ động trong phản ứng và ứng cứu sự cố, đặc biệt với các dữ liệu nhạy cảm về quốc phòng, an ninh, hạ tầng trọng yếu.

Ở khía cạnh kinh tế, phát triển công nghiệp an ninh mạng nội địa giúp tiết kiệm đáng kể ngoại tệ, tạo nguồn lực tái đầu tư cho R&D trong nước, đồng thời mở ra cơ hội xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ ra thị trường quốc tế.

Về nhân lực, đây là lĩnh vực có khả năng tạo việc làm chất lượng cao, thu hút nhân tài công nghệ trở về, góp phần hình thành đội ngũ chuyên gia an ninh mạng vững mạnh.

Về lâu dài, làm chủ công nghệ an ninh mạng không chỉ giúp Việt Nam chủ động trong đàm phán quốc tế về không gian mạng, mà còn xây dựng niềm tin và uy tín quốc gia.

“Chủ quyền số không chỉ là khẩu hiệu, mà là nền tảng sinh tồn và phát triển của đất nước trong thời đại số. Việc làm chủ công nghệ an ninh mạng là chìa khóa để bảo vệ chủ quyền số”, ông Hoàng Long khẳng định.

Trong kỷ nguyên chuyển đổi số toàn diện, biên giới quốc gia không còn chỉ nằm ở đất liền, trên không hay trên biển, mà mở rộng sang biên giới vô hình của không gian mạng. Ở đó, mỗi dòng dữ liệu, mỗi hạ tầng kỹ thuật, mỗi người dùng đều là một “mắt xích” của chủ quyền số.

Bảo vệ chủ quyền số, xét đến cùng, là một phần trong bảo đảm an ninh quốc gia, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý, lực lượng chuyên trách, cộng đồng doanh nghiệp và người sử dụng. Khi mỗi thành phần trong hệ thống đều ý thức được vai trò của mình, năng lực tự chủ về an ninh mạng của Việt Nam sẽ trở thành một trụ cột vững chắc trong chiến lược phát triển quốc gia thời đại số.

Ngày xuất bản: 31/10/2025
Tổ chức thực hiện: Ngọc Thanh - Hoàng Nhật
Nội dung: Hồng Vân - Trung Hưng
Trình bày: Trung Hưng
Ảnh, video: Thành Đạt, Lê Chí (Báo Nhân Dân), Hiệp hội An ninh mạng quốc gia