Đi tìm
bến đò liệt sĩ

bên bờ Hiền Lương

Bên bờ Bến Hải từng có những bến đò “lịch sử”, nơi chuyển bộ đội, quân lương… giữa hai miền nam-bắc được nhắc đến với biết bao câu chuyện bi hùng. Trong số đó, có một bến đò gần như bị lãng quên, chuyên nhận chuyển liệt sĩ từ bờ nam đưa về bờ bắc.

Thời gian đã xóa nhòa những vết dấu cuối cùng của bến đò này. Nó chỉ còn tồn tại ngắn ngủi trên sách vở và trong trí nhớ của những người ở lại…

Tháng 7/2024, trong dịp thăm lại bến đò anh hùng Tùng Luật (xã Vĩnh Giang, Vĩnh Linh, Quảng Trị), chúng tôi được gặp bà Ngô Thị Thọ (sinh năm 1947), từng là nữ dân quân làm nhiệm vụ chèo thuyền đưa cán bộ, chiến sĩ từ miền bắc vượt Vĩ tuyến 17 vào miền nam chiến đấu những năm 1967-1973.

Trong câu chuyện của mình, bà Thọ có nhắc tới chi tiết: Ngoài Cửa Tùng, Tùng Luật [các bến A, B - PV], xã Vĩnh Giang còn có một bến đò đặc biệt mà rất ít người biết tới mang bí danh bến đò C, còn được dân địa phương gọi là BẾN ĐÒ LIỆT SĨ.

Xã Vĩnh Giang có một bến đò đặc biệt mà rất ít người biết tới mang bí danh bến đò C, còn được dân địa phương gọi là BẾN ĐÒ LIỆT SĨ.

Thấy chúng tôi tò mò, bà Thọ giải thích: Giai đoạn 1967-1968, kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ ác liệt nhất. Từ miền bắc, hàng triệu thanh niên viết đơn tự nguyện lên đường nhập ngũ vì miền nam ruột thịt. Lúc này, ở bến Tùng Luật, bà Thọ mới 17 tuổi nhận nhiệm vụ chở những người lính “ăn cơm bắc, đánh giặc nam” qua sông Bến Hải mỗi ngày.

“Bến Tùng Luật chỉ chuyên chở bộ đội. Còn thương binh, liệt sĩ sẽ được đưa về bến C. Có những chuyến về, cả đò chỉ có 2 chiến sĩ bị thương và 4-5 thi thể. Anh em lo bọn o sợ nên nói dối: Đây chỉ là thương binh bị ngất đi. Nhưng bọn o biết vì chân o đã bén máu, lòng thuyền cũng loang lổ đỏ, còn tay rờ [sờ - PV] vào người họ đều đã lạnh ngắt cả. O liền nói: ‘Bọn em có sợ chi mô, chỉ thương mọi người thôi”, bà Thọ nhớ lại.

Bọn em có sợ chi mô, chỉ thương mọi người thôi.
Bà Ngô Thị Thọ

Từ lời kể của bà Thọ, chúng tôi đã cố gắng tìm hiểu thêm thông tin về Cụm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải từ hai nguồn xác tín.

Tại Trang thông tin Trung tâm quản lý di tích và bảo tàng tỉnh Quảng Trị giới thiệu: Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt “Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải” có 6 địa điểm di tích thành phần, bao gồm: khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương (bờ nam thuộc xã Trung Hải, Gio Linh; bờ bắc thuộc xã Hiền Thành, huyện Vĩnh Linh); Đồn công an Cửa Tùng (thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh); bến đò Cửa Tùng (Bến đò A, thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh); bến đò Tùng Luật (Bến đò B xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh); bến đò Lũy (Bến đò C, xã Vĩnh Giang, Vĩnh Linh) và bến đò Thượng Đông và Dục Đức (xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Linh).

Hồ sơ xếp hạng di tích của Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) lại chia cụm di tích thành 3 hợp phần, bao gồm: Hệ thống các địa danh khu vực đôi bờ Hiền Lương; đồn Công an Cửa Tùng và các bến đò dọc Vĩ tuyến. Ở đây, bến đò C cũng chỉ được điểm sơ lược như sau: “Bến đò Lũy (Bến đò C): bến thuộc thôn Cổ Mỹ, xã Vĩnh Giang. Sau chiến tranh, bến đò này không còn được sử dụng nữa”.

Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt “Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải” được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013.

Bến đò C đều chỉ được nhắc tới chung chung, không rõ về chức năng nhiệm vụ cũng như vị trí, hiện trạng bảo tồn thực tế hiện nay.

Như vậy, ở cả hai tài liệu phổ biến, bến đò C đều chỉ được nhắc tới chung chung, không rõ về chức năng nhiệm vụ cũng như vị trí, hiện trạng bảo tồn thực tế hiện nay.

Mang theo thắc mắc này hỏi lại bà Ngô Thị Thọ, nhân chứng 75 tuổi cho hay: Hiện bến đò C đã hoàn toàn mất dấu do sự đổi thay của thời gian.

“Muốn tìm lại vị trí chính xác, các anh chị chỉ có cách trở lại thôn Cổ Mỹ, tìm những người từng sương [gánh-PV] liệt sĩ ngày ấy”, bà Thọ gợi ý.

Hiện bến đò C đã hoàn toàn mất dấu do sự đổi thay của thời gian.

Với mong muốn tìm lại bến đò bi hùng một thưở trong thời chiến, nhóm phóng viên lên đường trở về ngôi làng cổ ven sông Bến Hải.

Theo chỉ dẫn của bà Thọ, chúng tôi bắt đầu men theo chân đê ngược về phía cầu Hiền Lương.

Dọc đường, những đầm phá nuôi tôm của người dân địa phương vuông vức, nối nhau trải dài ra tít tắp. Hàng bần cằn cỗi lô nhô sát bãi bùn lầy, như cố che khuất toàn bộ vết tích vốn đã mờ nhòe của bến đò năm xưa trong dòng thời gian đằng đẵng. Đã không còn có thể nhận ra bất kỳ “chỉ dấu” nào của bờ bãi nhận liệt sĩ nữa.

Dò hỏi mãi, sau cùng chúng tôi cũng gặp được nhân chứng đầu tiên, ông Hoàng Văn, chủ của một đầm tôm ven đường. Sinh năm 1962 tại Cổ Mỹ, từ bé, ông Văn đã biết đến sự tồn tại của bến đò. Dẫn chúng tôi ra một vuông cá nằm sát bờ sông, chỉ vào một gốc bần cao quá đầu người, ông Văn khẳng định: Đó là vị trí ban đầu của bến liệt sĩ.

“Tôi vẫn nhớ vì đây vốn là bến đò cũ đã có từ hàng trăm năm của làng. Trước đây, bến có tên là Lũy [hay Lụy theo cách phát âm của nhân dân địa phương - PV] bởi tại Cổ Mỹ, từ nhiều thế kỷ trước có một thành lũy cổ của người Chăm-Pa. Hồi đó, lũ trẻ chúng tôi không ai dám ra bến chơi vì rất sợ”, ông Văn nói với phóng viên Báo Nhân Dân.

Năm 1968, ông Văn di tản ra Tân Kỳ, Nghệ An theo kế hoạch K10. Tới khi quay trở lại Vĩnh Linh, địa danh này cũng đã bị… xóa sổ. Vết tích duy nhất để ông nhận ra chính là phần nền cũ vuông vức của đồn công an đối diện bến xưa.

Năm 1968, ông Văn di tản ra Tân Kỳ, Nghệ An theo kế hoạch K10. Tới khi quay trở lại Vĩnh Linh, địa danh này cũng đã bị… xóa sổ.

Nhìn từ trên cao, bằng mắt thường có thể nhận ra phần móng này khá vuông vắn, nhô cao lên trên ruộng ngô sát con đường dẫn vào Cổ Mỹ. Dùng tay bới lớp đất xuống chỉ chừng 1-2cm, chúng tôi vẫn có thể phát hiện ra lớp gạch cũ của công trình hơn 50 năm về trước.

Chưa kịp mừng vì đã “định vị” ban đầu được bến đò đặc biệt, ông Văn lại cho hay: “Trong thời gian chúng tôi di tản ra miền bắc, bến đò đã được di chuyển đi một vị trí khác. Nhưng vị trí này ở đâu, tôi cũng không rõ. Các anh chị nên vào làng tìm các cụ trực tiếp tham gia vận chuyển thời điểm ấy mới chính xác được”.

Lúc này, chúng tôi quyết định… vào làng với hy vọng có thể gặp được thêm những nhân chứng sống của thời kỳ khốc liệt 1967-1973. Tới Cổ Mỹ, nhóm phóng viên được người dân trong làng dẫn đến nhà ông Nguyễn Văn Thi, năm nay đã 85 tuổi. Gần 60 năm trước, ông Thi là dân quân trực chiến tại Vĩnh Giang, vừa được phân công bám trụ, bảo vệ bờ bắc; vừa tham gia tiếp lương tải đạn cho chiến trường miền nam qua Vĩ tuyến 17.

Khi biết phóng viên đang tìm hiểu về địa danh bến đò C, ông Thi đã phải mất khá lâu để có thể nhớ lại. Ông cho hay, vào khoảng cuối năm 1960, quân địch ngày càng bắn phá ác liệt. Lúc này, bến đò B tại thôn Tùng Luật - địa điểm chính vận chuyển người và khí tài “tiếp sức” cho chiến trường miền nam dần trở nên quá tải. Nguy cơ bến đò B bị địch phát hiện ngày càng lớn, nên cấp trên quyết định sử dụng thêm bến đò C cách đó không xa.

“Nhiệm vụ chính ban đầu của bến đò C là vận chuyển liệt sĩ và thương binh từ phía bờ nam sang bờ bắc. Về sau này, bến nhận thêm việc tải đạn để giảm bớt áp lực cho các bến đò khác”, ông Thi khẳng định với phóng viên.

Ông Thi cũng cho biết, trên thực tế, bến đò C đã 2 lần được chuyển dời. Để giúp chúng tôi tìm được vị trí chính xác, ông Thi quả quyết dẫn cả nhóm ra thực địa ngay giữa trưa nắng. Vị trí đầu tiên chính là điểm mà nhân chứng Hoàng Văn chỉ dẫn. Điểm còn lại cách đó chừng 100m, hướng về phía biển Cửa Tùng. Đáng tiếc, cả hai khu vực đã được người dân chuyển đổi thành các bãi nuôi trồng thủy sản nên dấu tích của lịch sử đều không còn.

Quyết tâm làm rõ thông tin của bến đò C và bến đò Lũy, chúng tôi tìm đến nhà bà Nguyễn Thị Kệ, cũng là người dân thôn Cổ Trai. Bà Kệ năm xưa là dân quân du kích trực tiếp trực chiến dọc Vĩ tuyến 17.

“Trước chiến tranh, bến đò Lũy đã có rồi. Dân trong vùng thường gọi là bến Lụy. Bến là phương tiện cho người dân qua lại giữa hai bờ sông. Đến khi cuộc chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn căng thẳng, ngoài bến đò ở Cửa Tùng và Tùng Luật, lệnh từ trên mở thêm một bến đò đoạn Cổ Trai để giảm thiếu áp lực về vận chuyển”, bà Kệ giải thích.

Để bảo đảm bí mật và rút ngắn quãng đường sang sông, bến liệt sĩ được dịch chuyển lên 100m phía đông bắc, về đoạn thắt eo nối liền Xuân Mỹ (Gio Linh, phía bờ nam) và Cổ Trai (Vĩnh Linh, phía bờ bắc).

Nhân chứng thứ 3 cũng cho biết, về sau, để bảo đảm bí mật và rút ngắn quãng đường sang sông, bến liệt sĩ được dịch chuyển lên 100m phía đông bắc, về đoạn thắt eo nối liền Xuân Mỹ (Gio Linh, phía bờ nam) và Cổ Trai (Vĩnh Linh, phía bờ bắc). Đây cũng là lý do nhiều người gọi bến đò C là bến đò Lũy. Thực ra, cả hai hợp với nhau thành một cụm di tích thực hiện nhiệm vụ thống nhất là nhận thương binh, liệt sĩ trở về.

“Hồi ấy, dân quân vất và và cực nhọc lắm. Giặc áp sát mép bờ nên nhiều người bị bắt. Việc vận chuyển lương thực và đạn dược cũng rơi vào thế khó nếu chỉ phụ thuộc vào hai bến kia. Sự ra đời của bến đò C đã giúp chúng tôi vượt sông gần hơn. Việc cáng thương binh, liệt sĩ cũng ít khi bị gián đoạn”, bà Kệ tiếp tục.

Để củng cố thông tin, chúng tôi tiếp tục đem nghi vấn lên gặp ông Nguyễn Văn An, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội động nhân dân xã Vĩnh Giang. Ông An cho biết: Khi đất nước bị chia cắt đôi miền, Vĩnh Giang ở thành đầu cầu giới tuyến, giáp dọc sông bến Hải khoảng 7,4km. Vùng này trước đây rất nhiều kênh rạch, ao hồ. Thực chất, Lụy vốn là tên một khu vực sông có từ xưa ở thành Cổ Lũy. Đến tháng 5/1967, bến đò C mới được thành lập và cách gọi này là ký hiệu về hành chính để việc quản lý dễ dàng hơn (vì trước đó đã có bến đò A, B). Theo đó, tên gọi Lũy (hay Lụy theo âm điệu của người Quảng Trị) có trước. Tên gọi bến đò C có sau nhưng chung quy đều chỉ về một địa điểm.

(Còn nữa)

Ngày xuất bản: 3/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH
Nội dung: SƠN BÁCH - NGỌC KHÁNH
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: THÀNH ĐẠT