Đây rồi! Bây ơi, đây rồi!

Chạm trúng một thi hài bị sóng cuốn dạt vào dọc bờ Bến Hải, o dân quân Nguyễn Thị Lý bất giác lên tiếng. Nói đoạn, cô gái nhỏ làng Cổ Mỹ cố nén nước mắt, quỳ gối và dùng đôi bàn tay gầy guộc gắng sức để kéo người lính lên triền cỏ cao hơn, trước khi “đội gánh liệt sĩ” kịp tới.

Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng những hồi ức bi tráng về một thời đỏ lửa của quân và dân Vĩnh Linh vẫn cứ trở đi trở lại trong tâm trí của bà Lý. Ròng rã hàng chục năm trời, đôi mắt bà vẫn đỏ hoe mỗi khi có ai đó nhắc tới chuyện về  bến đò chuyên chuyển thương binh, liệt sĩ ngày nào…

Căn nhà của bà Nguyễn Thị Lý nằm ngay đầu làng Cổ Mỹ, mặt trước hướng thẳng ra sông Bến Hải. Từ bậc thềm, chỉ mất chừng 3 phút băng qua cánh đồng ngô là đã có thể chạm chân vào Vĩ tuyến 17.

Biết chúng tôi tìm hiểu về địa danh bến đò liệt sĩ năm xưa, bà Lý lắc đầu quầy quậy: “Chuyện buồn hồi xưa, mệ kể mần chi (làm gì - PV). Toàn thương vong thôi, con ạ”.

Nói vậy, nhưng bà Lý vẫn chẳng dằn lòng được nên lại sẻ chia. Dường như, những ký ức cũ kỹ chỉ chực chờ một dịp để cồn cào lên, hiển hiện thành những nếp nhăn lô xô ép chặt vào nhau nơi khóe mắt.

Bà kể: Mùa hè năm 1967, cuộc chiến chống đế quốc Mỹ tại đôi bờ Vĩ tuyến 17 bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Thương binh, liệt sĩ chuyển từ chiến trường miền nam về bờ bắc Vĩnh Linh cũng ngày càng nhiều hơn. Thời điểm này, dọc sông Bến Hải đã hình thành các bến đò mang bí danh A (bến Cửa Tùng); B (bến Tùng Luật) chuyên làm nhiệm vụ đưa người, đạn dược, lương thực chi viện cho bờ nam.

Sách Lịch sử đảng bộ xã Vĩnh Giang (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) cũng ghi lại rằng, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, có 4 bến đò nối hai bờ nam-bắc sông Bến Hải. Bến nào cũng quan trọng nhưng có hai bến nằm ở vị trí trọng yếu là A (Vĩnh Quang) và B (Tùng Luật) vì phần lớn sức người, sức của từ miền bắc chi viện vào miền nam đều được tập kết ở các xã phía đông Vĩnh Linh. Nơi đây cũng có địa hình và nhiều địa vật dễ nguỵ trang, cất giấu.

Lúc này, nếu tiếp tục đưa thi hài liệt sĩ cập vào bến B sẽ gây tâm lý rất nặng nề cho bộ đội vượt sông vào nam chiến đấu. Do đó, lệnh trên quyết định phải thành lập một bến mới chuyên đảm trách nhiệm vụ này. Vị trí được chọn là bến Lũy tại thôn Cổ Trai (cũ, nay là thôn Cổ Mỹ - PV) cách đó hơn 1 cây số về phía Tây. Bến mới được đặt bí danh C”, bà Lý nhớ lại.

Là người thôn Cổ Trai, bà Lý ngày đó mới chỉ 21 tuổi nhưng đã xung phong nhận nhiệm vụ di chuyển bộ đội đã hy sinh và thương binh từ bến C về khu chôn cất tại Vĩnh Thạch và các nghĩa trang lân cận. Hồi tưởng lại khoảng thời gian này, bà kể: Bà thường xuyên phải di chuyển giữa đồng không mông quạnh và “cũng phải tự coi mình cũng là tử sĩ để có thêm dũng cảm hoàn thành việc được giao”.

Khi nớ, anh chị em đều xác định: đối mặt với bom đạn là sẽ có hy sinh. May nhờ, rủi chịu. Thế nhưng, mỗi khi nhận bàn giao từng đợt xác đồng đội để sương về [gánh về - PV], lòng chúng tôi vẫn đau như cắt”, kể tới đây, mắt bà Lý đã đỏ hoe.

Công việc của “tổ liệt sĩ” thường bắt đầu khá muộn. Theo phân công, nhiệm vụ tải thương đều do người dân ở khu vực Tân Sơn, Tân Mỹ, Cổ Mỹ, Di Loan đảm nhiệm. Lực lượng trực bến đò có 3 trung đội tác chiến. Các hoạt động được thực hiện chặt chẽ theo từng tuyến đường, vị trí và địa bàn.

Quãng 7-8 giờ tối, từ các điểm chốt, cả đội mới lặng lẽ ra dòng Bến Hải. Phía bờ, đạn dược, quân lương cũng sẵn sàng. Ít lâu sau, con đò nhỏ đã được chất đầy. Vành thuyền lún xuống, chỉ còn cách mặt sông chừng nửa gang tay. No “hàng”, chiếc thuyền chòng chành khua nước hướng sang đất Gio Linh.

Chiều đi là vậy, nhưng khi thuyền về từ bến C còn phải chở theo thương binh và liệt sĩ đã ngã xuống phía bờ nam. Thi thể các anh cũng được tập kết tại các điểm bí mật ven sông sát làng Bạch Chữ (Gio Linh) trước khi được đặt lên lòng thuyền để trở về. Chỉ mất chừng mười phút ngày thuận gió, thuyền đã chạm tới bờ Vĩnh Linh.

Bà thường xuyên phải di chuyển giữa đồng không mông quạnh và “cũng phải tự coi mình cũng là liệt sĩ để có thêm dũng cảm hoàn thành việc được giao”.

Lúc này, nhận hiệu lệnh, nhóm tải thương và gánh thi hài từ các vùng Tân Sơn, Tân Mỹ, Cổ Mỹ, Di Loan… mới vội vã chạy ra đón. Không ai được bật đèn, không ai được nói to. Chỉ còn tiếng bước chân dẫm trên bùn non lép bép, thi thoảng xen lẫn tiếng thở dài não nuột.

Mọi việc đều diễn ra trong tuyệt mật. Các đội viên tức tốc chạy hết chuyến này đến chuyến khác. Mỗi đêm, chúng tôi có 12 ca. Nhân lực gồm 10 dân quân lần lượt thay phiên nhau gánh. Cứ 2 người sẽ gánh 1 liệt sĩ hoặc thương binh trở về qua bến đò C. Vậy mà nhiều hôm bến đò gặp tình trạng quá tải”, hướng mắt về phía bờ sông phía xa xa, bà Lý run run kể.

Thương bệnh binh được đưa về các tiểu đội trú đóng gần đó để cứu chữa. Riêng liệt sĩ thì phải gánh tới một bãi sỏi lớn trên địa phận xã Vịnh Thạch để mai táng tạm. Có thời điểm bãi quá tải, nhóm bà Lý phải thay nhau sương các anh về tận những nghĩa trang lân cận để làm thủ tục cuối cùng.

Cuộc hội thoại bỗng rơi vào thinh lặng. Từ phía Vĩ tuyến, gió cuối chiều lộng về, xao xác cả hàng tiêu đang bước vào cuối vụ…

Từng có một vài lần chở liệt sĩ sang bến đò C, nữ du kích lái đò Ngô Thị Thọ, vốn “biên chế” ở bến Tùng Luật kể lại: “Có những lần chở thương binh, liệt sĩ từ chiến trường trở về, tôi bàng hoàng nhận ra những khuôn mặt chiến sĩ rất trẻ đã từng sang sông với mình vài bữa trước. Giờ phút này, các anh đã lạnh ngắt, cơ thể chằng chịt vết thương. Biết họ là những sinh viên miền bắc viết đơn tình nguyện nhập ngũ, có lẽ chưa một lần được nắm tay con gái, tôi khẽ nắm tay từng người…”.

May mắn hơn những người lính trẻ trong câu chuyện kể của bà Thọ là ông Lê Quang Ánh, người thôn Tân Mỹ, xã Vĩnh Giang. Những năm 1960, ông cùng đồng đội trong khẩu đội ĐKZ an toàn trở về quê hương sau trận thủy chiến Cửa Việt-Đông Hà - cuộc trở về ông gọi bằng hai từ “kỳ tích”. Không trực tiếp hoạt động tại bến đò C, nhưng ông Ánh cũng có kỷ niệm khó quên với địa danh này khi từng phải nhịn đói 2 ngày để đợi thời cơ vượt sông sang bờ bắc thông qua bến liệt sĩ.

“Hôm ấy, Mỹ bắn phá rất dữ dội quanh khu vực giới tuyến. Đáng lý ra, chúng tôi sẽ trở về bờ bắc qua bến đò B, nhưng vì bến Tùng Luật có nhiều người ra, kẻ vào, sợ bị phát hiện nên lãnh đạo phân công cả đội theo thuyền từ bến C”, ông nhớ lại.

Trong lúc chờ thời điểm phù hợp để sang sông, các tốp quân được chỉ đạo nấp sâu trong rú đoạn Bách Lộc-Xuân Mỵ (nay thuộc xã Trung Hải, huyện Gio Linh). Nơi này cây cỏ um tùm lại không quá xa điểm tập kết thuyền. Ông Võ Tế - người chèo thuyền trên bến đò C khi ấy căn dặn: “Làm gì thì làm, các đồng chí tuyệt đối không được phép lộ diện. Kể cả nấu ăn cũng không nên vì sẽ làm lộ vị trí”.

“Nhiều đêm nhịn đói và chiến đấu liên tiếp, bụng tôi quá cồn cào. Anh em liền rủ nhau ra bờ sông kiếm cá nổi lên do sức ép của bom để ăn tạm. Vừa tới sát mép bùn, chúng tôi bỗng thấy 2 thi thể của bộ đội ta lập lờ trôi trên sông. Máu họ sẫm cả mặt nước. Trong phút chốc, tất cả lặng người đi”, tiếng ông Ánh nghẹn ngào, đứt quãng khi nhắc về chuyện cũ.

Hít một hơi thật sâu, ông kể tiếp: “Tôi và đồng đội toan bơi xuống nhưng bên trên quân địch thả pháo sáng dày đặc, đạn xả liên tục. Hành động lúc đó đồng nghĩa với cái chết, đồng thời sẽ làm lộ vị trí của tiểu đội. Dẫu lòng đau như cắt nhưng chúng tôi đành bấm bụng nhìn anh em trôi đi trong bất lực”.

Dẫu lòng đau như cắt nhưng chúng tôi đành bấm bụng nhìn anh em trôi đi trong bất lực.

-- Ông Lê Quang Ánh --

Nhiều năm sau, ông Ánh vẫn không thể nguôi quên chuyện buồn bên dòng sông giới tuyến ngày ấy. Ông đã không ít lần bỏ lỡ cơ hội “nắm tay đồng đội lần cuối” để đưa các anh trở về.

“Bây giờ, bến đò C cũng đã bị lấp đi, ít ai nhớ và cũng ít người nhắc về chuyện cũ. Nhưng những ngày gánh thi hài đồng đội qua bến đò vẫn là đoạn hồi ức khó quên nhất trong cuộc đời tôi”, bà Nguyễn Thị Lý thoáng buồn…

Nhiều năm sau, ông Ánh vẫn không thể nguôi quên chuyện buồn bên dòng sông giới tuyến ngày ấy. Ông đã không ít lần bỏ lỡ cơ hội “nắm tay đồng đội lần cuối” để đưa các anh trở về.

Trong những năm qua, có rất nhiều di tích lịch sử-văn hóa được tỉnh đầu tư, tôn tạo. Tính đến thời điểm này, địa phương có đến hơn 500 di tích đã được công nhận là di tích cấp tỉnh. Hệ thống di tích lịch sử tại Quảng Trị phần lớn là các địa điểm ghi dấu những sự kiện lịch sử trong thời chiến.

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị Lê Minh Tuấn chia sẻ: Dù tỉnh nhà đã đặc biệt quan tâm đến công tác tôn tạo, bảo tồn những di tích này, song do nguồn lực còn khó khăn, hạn chế nên đến thời điểm hiện tại vẫn còn một số di tích lịch sử chưa được tu bổ, tôn tạo, trong đó có Bến đò Lũy (Bến đò C).

“Di tích Bến đò Lũy (Bến đò C) ở xã Vĩnh Giang, Vĩnh Linh là một trong sáu địa điểm di tích thành phần thuộc Di tích Quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải được xếp hạng theo Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Hiện tại, trong các điểm di tích thành phần này, công tác đầu tư tôn tạo chỉ mới tập trung ở một số điểm có tầm vóc và ý nghĩa lịch sử lớn đối với tỉnh nhà, đặc biệt là khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương, rồi đến Bến đò Tùng Luật (Bến đò B)”, ông Lê Minh Tuấn thông tin.

"Dù tỉnh nhà đã đặc biệt quan tâm đến công tác tôn tạo, bảo tồn những di tích này, song do nguồn lực còn khó khăn, hạn chế nên đến thời điểm hiện tại vẫn còn một số di tích lịch sử chưa được tu bổ, tôn tạo, trong đó có Bến đò Lũy (Bến đò C)".

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị
Lê Minh Tuấn

Với quyết tâm và nỗ lực trong việc bảo tồn, bảo vệ và phát huy giá trị các di tích lịch sử, ông Lê Minh Tuấn cho biết, sẽ tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền ở cơ sở, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương với các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể… để cùng thực hiện hiệu quả công tác tôn tạo, chống xuống cấp hệ thống di tích lịch sử-văn hóa. Đồng thời, gắn công tác bảo tồn di tích với phát triển du lịch bền vững; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá mảnh đất, con người và văn hóa Quảng Trị với các tỉnh, thành phố trong cả nước và bạn bè quốc tế.

Bên cạnh đó, ngành văn hóa sẽ tập trung mọi nguồn lực, bao gồm nguồn lực hỗ trợ từ Trung ương, ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa để đầu tư thỏa đáng cho việc bảo tồn, phát huy giá trị các di tích. Từ đó, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, đặc sắc riêng của huyện Vĩnh Linh, góp phần tạo đà thúc đẩy phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của huyện.

Theo Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị Lê Minh Tuấn, cần sớm hoàn thành công tác quy hoạch, nhất là với các di tích quốc gia do huyện Vĩnh Linh quản lý. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhằm gìn giữ tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích. Ngoài ra, định hướng cấu trúc không gian, cảnh quan và các giá trị tiêu biểu khác của di tích.

Di tích Bến đò Luỹ (Bến đò C) đã được đưa vào quy hoạch phục hồi, tôn tạo và bảo quản di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải.

Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị
Lê Minh Tuấn

“Di tích Bến đò Luỹ (Bến đò C) đã được đưa vào quy hoạch phục hồi, tôn tạo và bảo quản di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, hiện đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngành sẽ tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh kêu gọi đầu tư để bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích theo các hạng mục đã được phê duyệt”, ông Tuấn chia sẻ thêm.

Khi biết chúng tôi đang cố gắng ghi lại chuyện xưa ở bến đò C, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội động nhân dân xã Vĩnh Giang Nguyễn Văn An đã cất công tìm lại những tư liệu được ghi chép chính thống trong cuốn Lịch sử Đảng bộ xã mà nhóm tác giả đã giới thiệu ở trên. Anh cũng tận tình chỉ cho chúng tôi ra thăm nghĩa trang liệt sĩ của xã. Đây không chỉ là nghĩa trang liệt sĩ đầu tiên của toàn huyện Vĩnh Linh mà cũng là một trong những điểm tập kết và chôn cất liệt sĩ được đưa về từ bến đò C huyền thoại.

Trải qua nhiều lần trùng tu, một mặt sau của bia vẫn được giữ nguyên trạng, loang lổ vết đạn bom hằn in lên nền gạch cũ.

Trải qua nhiều lần trùng tu, một mặt sau của bia vẫn được giữ nguyên trạng, loang lổ vết đạn bom hằn in lên nền gạch cũ.

Trong khuôn viên rộng rãi được quy hoạch gọn gàng, nổi bật là tấm bia Tổ quốc ghi công cao 16,1m. Với chiều cao nổi bật ấy, trong quá khứ, tấm bia từng là “cột mốc” để địch bắn phá về bờ bắc. Trải qua nhiều lần trùng tu, một mặt sau của bia vẫn được giữ nguyên trạng, loang lổ vết đạn bom hằn in lên nền gạch cũ. Giữa các khe nứt, một thân cây bồ đề rắn rỏi đã bật chồi, vươn cao lên hứng nắng hôm nay.

Cô phóng viên trẻ nhất đoàn lặng lẽ chắp tay trước những hàng mộ im lìm, lầm rầm khấn. Vào giai đoạn cao điểm, nghĩa trang xã Vĩnh Giang có trên 2.000 liệt sĩ. Hiện tại, đây đang là nơi an nghỉ của 534 liệt sĩ, trong đó mới có 374 người xác định được danh tính. Các anh đến từ nhiều địa phương khác nhau khắp các tỉnh thành phía bắc.

Thời gian trôi qua, nhiều nhân chứng biết về sự tồn tại của bến đò C cũng không còn, chỉ có một ít ỏi vài người nhắc đến.

Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội động nhân dân xã Vĩnh Giang Nguyễn Văn An day dứt: “Sau chiến tranh, một số vùng phục hồi kinh tế rất nhanh, công tác bảo tồn những di tích cũng gặp không ít khó khăn. Thời gian trôi qua, nhiều nhân chứng biết về sự tồn tại của bến đò C cũng không còn, chỉ có một ít ỏi vài người nhắc đến. Khi các cụ còn sống thì cần khai thác triệt để thông tin của họ. Bởi không đâu xa, họ là những tư liệu ‘sống’ hiểu hơn ai hết câu chuyện thời chiến”.

Một chiều cuối năm.

Sau vài ngày mưa, sau cùng trời Quảng Trị cũng trong veo. Từng đụn mây khổng lồ xô nhau xếp thành những hình thù đặc biệt. Thoáng nhìn như núi non, lại có phần giống vết tích của một trái bom vừa nổ tung trên đất thép…

Ông Thi, người lính già từng “sống chết với sông tuyến” bước đi liêu xiêu trong nắng gắt, mắt nheo nheo khi cố hình dung lại hình hài cụm di tích năm nào. Sau gần 60 năm, bến cũ đã thành đầm, phá. Chỉ còn sót lại duy nhất cây bần già soi bóng vào dòng sông. Cây bần cằn cỗi màu thời gian, tựa như những ký ức về điểm đón liệt sĩ cũng dần bị phôi pha đi trong trí nhớ vài người rất ít ỏi còn lại.

Sau chuyến đi hồi tháng 7 và 8, chúng tôi cũng đã cố gắng nhờ Ủy ban nhân dân các huyện, thị tại Quảng Trị tìm lại người chèo đò trên bến C - ông Võ Tế nhưng chưa thành. Mảng hồi ức về địa danh đặc biệt vì thế cũng khuyết thiếu mãi một phần…

Ngày xuất bản: 3/2025
Tổ chức thực hiện: HỒNG MINH
Nội dung: SƠN BÁCH - NGỌC KHÁNH
Trình bày: NGỌC DIỆP
Ảnh: THÀNH ĐẠT - SƠN BÁCH