Con đường lúa gạo Việt Nam:
Những dấu chân và thành tựu

Con đường lúa gạo Việt Nam:
Những dấu chân và thành tựu

80 năm kể từ khi giành độc lập, từ một đất nước nông nghiệp đói nghèo, lạc hậu, hạt gạo sản xuất không đủ ăn, cho đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo. Trên hành trình phát triển vượt bậc của lúa gạo Việt Nam, ghi dấu những tâm huyết, sáng tạo, kế thừa và bứt phá trong nghiên cứu của nhiều thế hệ nhà khoa học nông nghiệp tạo ra các giống lúa năng suất, chất lượng, phù hợp với điều kiện sản xuất đa dạng. Hành trình đó cũng thấm đẫm mồ hôi công sức của hàng triệu người nông dân không ngừng tiếp thu, miệt mài ứng dụng những phương thức canh tác... thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu.
Với sản lượng ổn định và ngày càng tăng về chất lượng, gạo Việt Nam đã có mặt tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, vươn lên vị trí top đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Bước vào kỷ nguyên mới, ngành lúa gạo Việt Nam đang chuyển mình sang giai đoạn sản xuất bền vững, có trách nhiệm với môi trường và khí hậu, đưa gạo Việt Nam trở thành biểu tượng của một nền nông nghiệp hiện đại, thân thiện và hội nhập sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Hành trình làm chủ các giống lúa "made in Vietnam"
Sóc Trăng buổi trưa nắng, nhóm phóng viên chúng tôi đã tìm về Nhà tưởng niệm bác sĩ nông học Lương Định Của để thắp nén nhang tưởng nhớ ông, người đã tiên phong nghiên cứu cây lúa một cách bài bản để tạo ra những giống lúa mới, mở màn cho cuộc cách mạng nông nghiệp lúa gạo của Việt Nam.
Những tên tuổi lớn tạo ra bước đột phá trong hành trình nghiên cứu lúa gạo



Trong bối cảnh vừa chiến tranh vừa đói kém, năm 1952, bác sĩ nông học Lương Định Của, nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã từ Nhật Bản trở về nước để đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cây lúa bao đời nay được canh tác một cách tự nhiên đã được ông đưa vào nghiên cứu một cách bài bản.
Bấy giờ, giống lúa Việt Nam hầu hết lúa truyền thống, năng suất thấp và không có kỹ thuật canh tác. Bác sĩ nông học Lương Định Của đã lai tạo giống Ba Thắc của Nam Bộ với lúa Nhật Bản thành giống lúa Nông nghiệp 1 để gieo trồng vào vụ hè thu, giống lúa Chiêm 314 cho vùng đất trũng sâu; giống lúa Thần Nông 307, NN75-1, NN8-388… tăng năng suất lên đến từ 20-30% so với các giống lúa cũ và khả năng chịu sâu bệnh tốt, lúa Chiêm ngắn ngày, lúa mùa sớm. Nhờ đó, phần nào giải quyết nạn đói sau năm 1945.
Giai đoạn những năm 1960-1970, ông lai tạo thêm các giống lúa mới như A69, C70, Chiêm Cơm, Nếp 87… được phổ biến rộng rãi trên cả nước, đặt nền tảng cho hệ thống giống lúa quốc gia sau này.
Lăn lộn với bà con nông dân và là người cũng tâm huyết phải xây dựng được Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long, làm điểm tựa cho bà con về việc lai tạo giống lúa mới và kỹ thuật canh tác, ông Lương Định Của xuống từng cánh đồng, kiểm nghiệm lúa ngay sau khi thu hoạch. Chỉ tiếc, người con của Sóc Trăng qua đời quá sớm mà không đi trọn vẹn với hành trình cây lúa Việt Nam. Nhưng di sản hơn 40 giống cây trồng và nhiều công trình nghiên cứu nông nghiệp ứng dụng của ông đã tạo tiền đề cho ngành lúa sau này.
Sau Lương Định Của, nhiều nhà khoa học tiếp bước ông dành tâm huyết với con đường lúa gạo Việt Nam. Giáo sư Võ Tòng Xuân là một tấm gương điển hình khi đầu tư chất xám nghiên cứu giống lúa cao sản IR8, IR36, phổ biến kiến thức về kỹ thuật canh tác lúa nước cải tiến cho nông dân đồng bằng sông Cửu Long.
Có giống cao sản rồi, việc quan trọng bây giờ là phải đưa được khoa học hiện đại vào đồng ruộng. Ông là người đầu tiên đề xuất mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, triển khai mô hình "5 nhà" để tăng hiệu quả sản xuất, bảo đảm đầu ra, nâng giá trị lúa gạo Việt.
Năm 1972, khi rầy nâu phát triển mạnh, tàn phá giống của Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế, ông là người liên tục đi xin giống và nhân rộng giống IR26 và IR30 tại Việt Nam. Canh tác vài vụ, giống lúa bộc lộ hạn chế, năng suất chưa cao, gạo chưa ngon cơm và quan trọng là sinh trưởng không ổn định, bị rầy nâu tàn phá. Việc tự chủ giống lúa cấp thiết hơn bao giờ hết để Việt Nam bảo đảm an ninh lương thực.
Giai đoạn này, Việt Nam bắt đầu chú trọng đầu tư vào nghiên cứu, chọn tạo và nhân giống trong nước. Ngành nông nghiệp nhanh chóng thành lập các viện nghiên cứu nông nghiệp như Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long… để triển khai chiến lược phát triển giống lúa nội địa.
Một cú hích với ngành nông nghiệp Việt Nam chính là sự kiện năm 1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13/01/1981, còn được gọi là "Khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp". Đây là bước ngoặt vĩ đại, giúp người nông dân được làm chủ trong sản xuất, được hưởng thành quả theo đúng năng lực lao động sản xuất, đưa người nông dân thoát ra khỏi cảnh đói nghèo kéo dài.
Cũng nhờ chính sách khoán 10, các nhà khoa học đầu tư nhiều cho việc tạo ra các giống lúa mới. Những giống OM1490, OM6976, sau này là nhóm giống OM5451, OM6976, OM18, nếp 98… lần lượt ra đời với năng suất cao, kháng sâu bệnh tốt, thích ứng đa dạng vùng sinh thái. Lúa gạo lúc này, không chỉ là một sản phẩm nông nghiệp, cứu đói, mà trở thành một sản phẩm chủ lực trong phát triển kinh tế, ngoại giao thương mại.
Giai đoạn này, Giáo sư Võ Tòng Xuân là người có vai trò rất lớn trong xúc tiến hoạt động thương mại cho ngành lúa gạo ra thế giới. Ông là người cố vấn chiến lược cho lô gạo xuất khẩu đầu tiên năm 1989.
Năm 1989 trở thành dấu mốc đặc biệt khi Việt Nam xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo đầu tiên kể từ ngày giành được độc lập. Điều này có giá trị rất lớn, khẳng định với thế giới về khả năng tự chủ và vị thế của Việt Nam, từ một nước thiếu lương thực trầm trọng, được viện trợ, sau đổi mới, người nông dân làm chủ đồng ruộng đã tạo ra những giá trị lớn cho ngành lúa gạo. Bước đệm lớn này đã từng bước đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới (cùng với Thái Lan và Ấn Độ).
“Những năm đầu tiên khi xuất khẩu gạo, giá một tấn gạo của Việt Nam chỉ 250 USD còn Thái Lan tới 800 USD. Tôi nói với các em sinh viên nếu muốn thắng Thái Lan phải tập trung làm lúa ngắn ngày, cấy 3 vụ/năm, sẽ được 9 triệu tấn/ha”.
Ông tiếp tục miệt mài nghiên cứu lai tạo giống ngắn ngày cho năng suất cao, xin Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế giống lúa đời thứ 4-5 để tự lai tạo giống. Một giống lúa ổn định phải lai tạo từ 1 đến 8 đời. Ông đóng cửa lớp học, đưa các em sinh viên xuống ruộng thực địa, vừa nghiên cứu kỹ thuật canh tác lúa, vừa theo dõi quá trình sinh trưởng của giống lúa mới.
Những thành tựu nghiên cứu giống lúa của Giáo sư Võ Tòng Xuân được nhiều thế hệ học trò ở đồng bằng sông Cửu Long đồng hành, tiếp nối hành trình tạo ra giống lúa nội địa gạo thơm, ngon cơm.
Một hướng đi phải tạo nên gạo thơm, ngon cơm khiến các nhà nghiên cứu đau đáu. Bấy giờ, trong số các sinh viên là học trò của Giáo sư Võ Tòng Xuân, kỹ sư Hồ Quang Cua rất thích nghiên cứu giống lúa. Thầy trò bàn nhau mang giống lúa mới ở Thái Lan về nhưng cũng rất chật vật vì gạo thì ngon rồi, hạt trắng, dài, nhưng chưa thơm.
“Chúng tôi thử lấy nếp cái hoa vàng kết hợp với giống lúa gene trồng ngắn ngày, thấy có khả thi. Năm 2017, chúng tôi chọn được giống ST24 và đánh giá chất lượng xuất sắc nhất. Sau khi thua cuộc thi Gạo ngon nhất thế giới, chúng tôi tìm tiếp dòng lai ra được ST25 và đưa đi thi vào năm 2019. Và năm đó, gạo ST25 xuất sắc được công nhận là gạo ngon nhất thế giới”, cố Giáo sư Võ Tòng Xuân từng chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân.
Làm chủ nguồn giống, vươn tới gạo chất lượng và năng suất vượt trội

Kỹ sư Hồ Quang Cua
Trong cuốn: "50 năm nghiên cứu và phát triển lúa gạo" xuất bản năm 2010, giáo sư Bùi Bá Bổng, giáo sư Nguyễn Văn Bộ và giáo sư Bùi Chí Bửu đã rút ra nhận xét: Từ năm 1868 đến năm 1955 là thời gian kéo dài trên 80 năm năng suất lúa chỉ tăng 1 tấn/ha; thời gian từ 1955 đến 1985 năng suất lúa nước ta tăng 1 tấn/ha trong 30 năm; thời gian từ 1985 đến 1999 năng suất lúa nước ta tăng 1 tấn/ha trong 15 năm. Chỉ riêng trong 5 năm, từ năm 2000-2005 năng suất lúa tăng 1 tấn/ha trong 5 năm.
Năng suất lúa tăng nhanh đến ngỡ ngàng. Sau thống kê gần nhất (năm 2010), năng suất lúa Việt Nam còn tăng hơn nữa và hiện nay Việt Nam dẫn đầu năng suất lúa ở Đông Nam Á.
Theo kỹ sư Hồ Quang Cua, để có bước tiến thần tốc như vậy, hàng nghìn nhà khoa học Việt Nam, khởi đầu là nhà bác học Lương Định Của, đã dày công nghiên cứu trong những điều kiện vô cùng khó khăn thiếu thốn. Ở giai đoạn 2000-2005, năng suất lúa tăng 1 tấn/ha là nhờ từ năm 1993, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai chương trình giống lúa do Chính phủ phê duyệt. Các giai đoạn trước năm 2000 chỉ chú ý lúa có năng suất. Từ sau năm 2000 đã bắt đầu có những giống lúa hạt dài, mềm cơm, thơm nhẹ hay được gọi là lúa chất lượng cao.
Đến nay, Việt Nam hoàn toàn làm chủ hệ thống giống lúa, từ việc chọn giống, lai tạo, sản xuất giống siêu nguyên chủng đến nhân rộng đại trà.
Chia sẻ về hành trình nghiên cứu giống lúa cùng các nhà khoa học trên cả nước trong hành trình gần 50 năm qua, Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long cho hay, từ những việc đơn giản ban đầu như thu thập giống lúa mùa, cải tiến và làm thuần để bà con tiếp tục gieo trồng, thu thập nguồn gene, đánh giá sâu bệnh và cải tiến các mô hình canh tác lúa thì đến 1980, với việc được đào tạo bởi các chuyên gia Ấn Độ, Viện bắt đầu xây dựng chương trình nghiên cứu chọn giống lúa của riêng mình.
10 năm sau đó, từ nguồn lúa nhập nội và giống địa phương, Viện thành công trong việc lai tạo ra các giống lúa ngắn ngày và có tiềm năng năng xuất cao, phù hợp cho việc tránh lũ như giống lúa OM chỉ trồng trong 85-90 ngày, năng suất 5-6 tấn/ha, thời gian sinh trưởng ngắn, đóng vai trò rất lớn với ngành lúa gạo Việt Nam trước năm 2000.
Trong giai đoạn này, Viện cũng lai tạo ra nhiều giống lúa có khả năng chống chịu sâu bệnh, phèn, mặn và khô hạn. Một số giống lúa như OM6976, OM4900….đã đưa vào sản xuất có hàm lượng sắt và hàm lượng kẽm trong gạo cao, đã giúp cải thiện sức khỏe cho người tiêu dùng trong thời gian qua.
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch cho hay, sau năm 2010, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đẩy mạnh tạo giống lúa theo phân khúc nhu cầu của thị trường. Đối với một số vùng rủi ro, các cán bộ kỹ thuật sẽ bổ sung thêm cho giống lúa khả năng chống chịu mặn-hạn cho giống lúa, giảm thiệt hại khi canh tác.
Viện đã xây dựng được một ngân hàng gene, lưu trữ hơn 1.000 giống lúa mới và khoảng 3000 giống lúa cổ truyền. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị rất lớn đối với ngành khoa học lúa gạo Việt Nam và thế giới.
Viện đã thực hiện Đề tài cấp Quốc gia về "Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật công nghệ sinh học trong chọn tạo giống lúa tích hợp đa gene kháng (rầy nâu, đạo ôn, mặn…) thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và phục vụ xuất khẩu cho vùng đồng bằng sông Cửu Long". Qua đó, Viện đã lai tạo 8 tổ hợp lai mang nền di truyền của giống lúa OM4900 được tích hợp 5 gene quy định tính chống chịu sâu bệnh hại chính là: Pita và Pik-h có nguồn gốc từ giống lúa Tẻ Tép kháng với các chủng bệnh đạo ôn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Với Đề tài cấp Bộ về "Nghiên cứu chọn tạo giống lúa Japonica năng suất chất lượng cao thích nghi với điều kiện canh tác lúa các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long", Viện đã chọn tạo 1 giống lúa Japonica mới OM46 được công nhận lưu hành sản xuất; 2 dòng lúa triển vọng OM80 và OM79 đã gửi khảo nghiệm quốc gia VCU.
Bên cạnh đó, xây dựng quy trình canh tác và phòng trừ sâu bệnh cho giống lúa OM46 và mô hình trình diễn giống lúa OM46 kết hợp áp dụng quy trình canh tác và phòng trừ sâu bệnh cho giống lúa OM46 (tại 3 điểm trình diễn, quy mô 2 ha/điểmx2 vụ) tăng hiệu quả kinh tế 10-15% so với giống đối chứng tại địa phương.
Với Đề tài "Nghiên cứu chọn tạo giống lúa nếp năng suất, chất lượng cao cho vùng đồng bằng sông Cửu Long", Viện đã lai tạo 150 tổ hợp lai mới, xử lý đột biến phóng xạ 10 giống lúa nếp và nuôi cấy túi phấn 10 tổ hợp lai F2; chọn được 880 cá thể lúa nếp từ 1.850 dòng lúa nếp kế thừa và 1.430 cá thể lúa nếp từ 3.000 dòng vật liệu mới.
Với vòng đời của giống chỉ khoảng 10 năm, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long phải tạo ra giống liên tục có phẩm chất tương đương và cao hơn và có khả năng kháng sâu bệnh tốt hơn để thay thế. Bên cạnh đó, viện cũng tạo ra giống mới để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong chiến lược nghiên cứu, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long quan tâm giá trị dinh dưỡng của lúa giống. Giống lúa trong sản xuất có hàm lượng sắt, kẽm cao như trong OM5451, OM6976… bổ sung dinh dưỡng rất tốt, nhưng các giống lúa này đã giảm dần trong sản xuất vì bị nhiễm sâu bệnh. Trên nền tảng đó, Viện cũng nghiên cứu giống lúa cải thiện các giống này và lai tạo mới các giống có vi chất dinh dưỡng và sắc tố cao và có chỉ số dường huyết thấp để bảo đảm tăng cường sức khỏe cho người tiêu dùng.
Trong chương trình lai tạo giống, đa dạng hóa mục tiêu, viện vẫn giữ giống lúa chủ lực và tiếp tục khai thác cho thị trường phân khúc gạo thấp, khối lượng ít nhưng giá trị cao, phục vụ cho sản xuất gạo tiêu thụ nội địa cho chủ động để đồng bằng sông Cửu Long không thụ động về giống.
“Hiện nay, chúng tôi lấy phẩm chất gạo làm định hướng để nghiên cứu gồm: độ ngon của cơm, giá trị dinh dưỡng, cảm quan của người tiêu dùng với chi phí canh tác thấp, nhưng cho năng suất cao”, Tiến sĩ Thạch cho hay.
Xuất bản: 8/2025
Tổ chức sản xuất: Hồng Minh
Nội dung: Hồng Vân - Thiên Lam-Thanh Phong
Ảnh: Báo Nhân Dân, Internet
Trình bày: Diệp Linh

