Khi hạt gạo trở thành

“đại sứ nông nghiệp”

Khi hạt gạo trở thành

“đại sứ nông nghiệp”

80 năm kể từ khi giành độc lập, từ một đất nước nông nghiệp đói nghèo, lạc hậu, hạt gạo sản xuất không đủ ăn, cho đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo. Trên hành trình phát triển vượt bậc của lúa gạo Việt Nam, ghi dấu những tâm huyết, sáng tạo, kế thừa và bứt phá trong nghiên cứu của nhiều thế hệ nhà khoa học nông nghiệp tạo ra các giống lúa năng suất, chất lượng, phù hợp với điều kiện sản xuất đa dạng. Hành trình đó cũng thấm đẫm mồ hôi công sức của hàng triệu người nông dân không ngừng tiếp thu, miệt mài ứng dụng những phương thức canh tác... thích ứng linh hoạt với biến đổi khí hậu.

Với sản lượng ổn định và ngày càng tăng về chất lượng, gạo Việt Nam đã có mặt tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, vươn lên vị trí top đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Bước vào kỷ nguyên mới, ngành lúa gạo Việt Nam đang chuyển mình sang giai đoạn sản xuất bền vững, có trách nhiệm với môi trường và khí hậu, đưa gạo Việt Nam trở thành biểu tượng của một nền nông nghiệp hiện đại, thân thiện và hội nhập sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu. 

Trại nghiên cứu giống lúa ST của nhà nông học Hồ Quang Cua cách không xa khu nhà tưởng niệm Bác sĩ nông học Lương Định Của, ở bên rìa thành phố Sóc Trăng (cũ). Ngồi cùng ông Cua trong “chòi ngắm lúa”, nhìn ra những mảnh ruộng canh tác giống lúa ST ngon bậc nhất thế giới được đánh số từ 1 đến 25, chúng tôi mới biết, ST chính là được viết tắt của từ Sóc Trăng. Và mảnh đất Sóc Trăng thật đặc biệt khi đã sản sinh ra những nhà khoa học gắn cả đời mình với lúa.

Kỹ sư Hồ Quang Cua đã dành cả ngày hôm đó để kể về hành trình 18 năm lai tạo ra giống gạo ngon nhất thế giớ, khiến hạt gạo không chỉ giải quyết bài toán lương thực trong nước, mà còn có sức cạnh tranh với thế giới, giúp tên tuổi Việt Nam lan xa cùng đường đi của lúa gạo.

Chinh phục đỉnh cao gạo ngon thế giới

Trong khu ruộng ươm giống rộng chừng 10ha, ông Hồ Quang Cua thử nghiệm nhiều loại dòng vừa lai tạo, và cả cách trồng mới để thử khả năng từng giống mới. Những kỹ sư tại đây được ông đào tạo thuần thục 20 năm qua, đều chịu đựng sự khắt khe, khó tính của ông trong từng khâu chọn tạo giống lúa.

Là người tiếp lửa cho hành trình mang gạo Việt Nam ra thế giới và định vị được thương hiệu lúa gạo Việt Nam, kỹ sư Hồ Quang Cua tiết lộ, thứ dẫn dắt ông đến với gạo thơm chính là từ năm 2002, khi lai tạo giống lúa mới, đều lấy gạo Khao Dawk Mali (gạo thơm hàng đầu thế giới) làm tiêu chí để nghiên cứu: “Lai tạo lúa thơm chưa ai làm, chỉ làm loại gạo thường. Đây là mảng nghiên cứu còn bỏ trống và phải cần nhiều thời gian để lai tạo”.

Thời gian này, thế giới có nhiều nghiên cứu về hạt gạo dài, trắng, thơm, ngon cơm nhưng năng suất thấp. Bởi thế, mục tiêu của ông còn lớn hơn, là phải có được giống lúa kinh tế, năng suất cao, bên cạnh thơm. Nhưng nghiên cứu lúa thơm không dễ.

Ông Hồ Quang Cua nhớ mãi lời Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Bửu (Phó giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, Viện trưởng Viện Khoa học - kỹ thuật nông nghiệp miền nam) rằng: Nếu hai giống lúa có đặc tính không tương thích, việc lai phấn (giao phối) sẽ khó khăn và nếu không dung hợp được, hạt lúa sẽ không thể thụ tinh và phát triển.

Từ bài học đó, 18 năm, nhóm nghiên cứu thực hiện các tổ hợp lai phức hợp bởi nhiều cá thể có mang gene thơm để con lai tích hợp nhiều tính thơm. Ông Cua nghĩ tới những loại gạo thơm xa hơn, ở ngoài bắc để lai tạo.

Chúng tôi miệt mài lai xa giữa các giống/dòng ở đồng bằng sông Cửu Long với các giống/ dòng ở đồng bằng sông Hồng và lai giữa loài phụ Oryza sativa Indiaca với loài phụ Oryza sativa Japonica (lúa Tám Xoan) để kết hợp hai mùi vị khác nhau là thơm dứa (giống phía nam) với thơm cốm (giống phía bắc) đã tạo nên chất lượng cao có tính khác biệt.
Kỹ sư Hồ Quang Cua

Hành trình ấy “ngốn” thời gian tới 18 năm. Việc đầu tiên, là nhóm phải nghiên cứu sử dụng vật liệu di truyền qua chiếu xạ đã mất tính cảm quang để phá vỡ “tính bất tương hợp” (lai không thụ phấn), lọc lại vật liệu lai tạo các giống lúa mất cảm quang thành công. Tiếp đó, nhóm tiến hành lai phức hợp nhóm bố-mẹ có tính thơm nhiều lần để tích lũy tính thơm vào con lai.

Nhóm kỹ sư bố trí gieo trồng trên quy mô thật lớn trong giai đoạn phân ly mạnh (F5 về sau) để tăng cơ hội chọn dòng ưng ý. Các dòng được trồng và khảo sát liên tục để chọn những dòng vừa có phẩm chất tốt vừa có tính kháng dịch hại và có năng suất cao. Thành phẩm ông gửi đi phân tích các đặc tính về Amylose, độ bền thể gel, độ trong, độ dài, độ thon, độ trở hồ và mùi vị cơm để so sánh.

Đến ngày 12/11/2019, các ông đã thành công khi mang gạo ra thế giới chinh phục vị trí “đỉnh cao”. Năm 2017, tại Hội nghị quốc tế lần thứ 9 về mua bán gạo do tổ chức The Rice Trader (Tổ chức thương mại gạo) tại Ma Cao (Trung Quốc), gạo ST24 được vinh danh gạo ngon thế giới với những phẩm chất vượt trội như ngắn ngày, hạt gạo dài, trắng trong, dẻo cơm, thơm thoảng hương lá dứa,…

Vào năm 2019, tại Cuộc thi gạo ngon nhất thế giới tổ chức trong khuôn khổ hội nghị Thương mại gạo Thế giới lần thứ 11 tại Manila (Philippines), gạo ST25 của doanh nghiệp Hồ Quang (Sóc Trăng) đã xuất sắc vượt qua gạo Thái Lan, giành giải Nhất cuộc thi gạo ngon nhất Thế giới 2019.

Khi trò chuyện với phóng viên Báo Nhân Dân năm 2023 tại giải thưởng Vin Future, Giáo sư Võ Tòng Xuân từng kể một chi tiết rằng, trong bài phát biểu tại lễ công bố Gạo ngon nhất thế giới, ông nói với nước bạn: “Tôi biết phần lớn các bạn chuyên đi mua gạo của các nơi khác để phân phối cho khách hàng các bạn. Tôi muốn các bạn công nhận giống của Việt Nam ngon nhất. Giống gạo của Việt Nam khác Thái Lan chút, vì Thái Lan trồng một vụ/năm, đạt 4 tấn/ha còn Việt Nam trồng 3 vụ/năm, đạt 6 tấn/1 ha, nên một năm trồng ít nhất đạt 15 tấn". Khi đó, nước bạn Thái Lan mới nể nỗ lực vươn lên của ngành lúa Việt Nam, không chỉ ở chất lượng gạo, mà còn ở năng suất rất vượt trội.

Trong giai đoạn hiện tại, uy tín của gạo Việt Nam đang được cải thiện rất nhiều, giá xuất khẩu không ngừng được cải thiện và cạnh tranh với gạo Thái Lan ở cùng phân khúc. Trong thương mại lúa gạo khoảng 50 triệu tấn/năm trên thế giới, phân khúc gạo trắng, hạt dài chiếm 60-70%, và Việt Nam đang chiếm ưu thế ở phân khúc gạo trắng, hạt dài với các giống lúa như OM18, OM5451, Đài thơm 8...

Trong 8 triệu tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam, 95% là phân khúc gạo trắng, hạt dài, nếp và gạo Nhật, còn phân khúc gạo cao cấp bán trên 1.000 USD như, các chủng loại ST còn khá khiêm tốn và chiếm ưu thế là các chủng loại gạo basmati của Ấn Độ và Pakistan và gạo thơm Lài của Thái Lan rất ít. Hiện nay, các giống lúa thuộc phân khúc gạo trắng, hạt dài của Việt Nam như OM5451, OM18, Jasmine 85… đang được người nông dân ở Campuchia và Thái Lan gieo trồng rất nhiều.

Trong thương mại lúa gạo khoảng 50 triệu tấn/năm trên thế giới, phân khúc gạo trắng, hạt dài chiếm 60-70%. Đây là vị thế của gạo Việt Nam với những thương hiệu như ST25, OM18, OM5451, Đài thơm 8... Tuy nhiên, trong 8 triệu tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam, 95% là phân khúc gạo trắng, hạt dài, còn phân khúc gạo bán trên 1.000 USD như Làng Hoa Chính, ST rất ít.

Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, về phân khúc gạo thơm, dù Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long không thể cung cấp hết giống cho toàn vùng, nhưng các viện nghiên cứu, các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp địa bàn làm rất tốt như Làng Hoa Chính, ST25, Đài Thơm 8… tạo nên sự bảo đảm cơ cấu giống rất tốt. Khi bà con chuyển đổi sản xuất giống sang giống gạo thơm, ngon cơm, giá trị gạo xuất khẩu tăng lên.

Riêng đối với phân khúc gạo cao cấp như của Thái Lan, dù canh tác cùng chủng loại, nhưng gạo của Việt Nam phần lớn cạnh tranh hơn so với Thái Lan, Parkistan… như chất lượng gạo cao hơn nhưng giá thành thấp hơn.

Thành công của những thương hiệu như gạo ST25 – gạo ngon nhất thế giới năm 2019, hay gạo Hạt Ngọc Trời, gạo hữu cơ Quảng Trị… đã nâng tầm giá trị hạt gạo Việt Nam. Việt Nam hiện là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, cùng với Thái Lan và Ấn Độ.

Theo số liệu báo cáo mới nhất (2024), đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 70 giống được gieo trồng, giống có diện tích trên 1.000 ha/năm có khoảng 40 giống, trên 10.000 ha/năm có khoảng 20 giống, trên 50.000 ha/năm có khoảng 10-15 giống và trên 100.000 ha/năm chỉ có 5 giống.

Trong 5 giống chủ lực thì 3 giống thuộc phân khúc gạo trắng chiếm 65,2% diện tích gieo trồng hàng năm (OM18: 1.015.000 ha, Đài Thơm 8: 780.000 ha và OM5451: 635.000ha), còn lại là nếp IR4625 (265.000 ha, chiếm 7,1% diện tích gieo trồng) và giống lúa Nhật DS1 (145.000ha, chiếm 3,91% diện tích gieo trồng).

Việt Nam khẳng định vị thế là cường quốc xuất khẩu gạo

Từ khoảng 4 triệu ha trồng lúa vào những năm 1980, nay cả nước duy trì khoảng 7,1 triệu ha/năm; từ sản lượng từ dưới 20 triệu tấn gạo/năm (1985) lên tới trên 43 triệu tấn gạo năm 2023; từ lô hàng xuất khẩu đầu tiên năm 1989 (1,4 triệu tấn) đến trên 8 triệu tấn gạo/năm, mang về hàng tỷ USD, ngành lúa đóng góp gần 15% giá trị toàn ngành nông nghiệp, là trụ cột của an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu nông sản là câu chuyện dài - câu chuyện của lúa thích ứng với biến đổi khí hậu.

Cột mốc lịch sử với gạo Việt Nam chính là năm 1999, khi chúng ta có kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu vượt 1 tỷ USD, với sản lượng 4,6 triệu tấn và giá xuất khẩu bình quân 227USD/tấn, đưa chúng ta chính thức trở thành một trong các cường quốc về xuất khẩu gạo trên thế giới. Năm 2011, hạt gạo Việt lập kỷ lục về sản lượng khi đạt tới 7,1 triệu tấn, kim ngạch 3,65 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân 495 USD/tấn.

Thu hoạch lúa theo quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Cần Thơ.

Thu hoạch lúa theo quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Cần Thơ.

Năm 2022, Việt Nam một lần nữa lại tạo nên những bước phát triển mới khi vượt qua quy trình kiểm nghiệm vô cùng khắt khe với hơn 600 chỉ tiêu để có mặt tại thị trường khó tính nhất nhì thế giới như Nhật Bản.

Một dấu ấn quan trọng trong hành trình khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên trường thế giới là năm 2024, Việt Nam đã đạt kỷ lục về sản lượng 9 triệu tấn gạo, giá trị xuất khẩu với 5,7 tỷ USD. Giá gạo xuất khẩu bình quân đạt mức cao nhất, với 627,9 USD/tấn, tăng 10,6% so với năm 2023.

Hạt gạo Việt Nam đã có trên sạp hàng của 150 thị trường, quốc gia và khu vực. Và chúng ta hiện là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, cùng với Thái Lan và Ấn Độ.

Trong giai đoạn hiện tại, uy tín của gạo Việt Nam đang được cải thiện rất nhiều, giá xuất khẩu không ngừng được cải thiện và cạnh tranh với gạo Thái Lan ở cùng phân khúc. Trong thương mại lúa gạo khoảng 50 triệu tấn/năm trên thế giới, phân khúc gạo trắng, hạt dài chiếm 60-70%, và Việt Nam đang chiếm ưu thế ở phân khúc gạo trắng, hạt dài với các giống lúa như OM18, OM5451, Đài thơm 8...

Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long cho hay, về phân khúc gạo thơm, dù viện không thể cung cấp hết giống cho toàn vùng, nhưng các viện nghiên cứu, các đơn vị sự nghiệp công lập, các doanh nghiệp địa bàn làm rất tốt như Nàng Hoa 9, ST25, Đài Thơm 8… tạo nên sự bảo đảm cơ cấu giống rất tốt. Khi bà con chuyển đổi sản xuất giống sang giống gạo thơm, ngon cơm, giá trị gạo xuất khẩu tăng lên.

Thành công của những thương hiệu như gạo ST25 – gạo ngon nhất thế giới năm 2019, hay gạo Hạt Ngọc Trời, gạo hữu cơ Quảng Trị… đã nâng tầm giá trị hạt gạo Việt Nam.

Trong 8 triệu tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam, 95% là phân khúc gạo trắng, hạt dài, nếp và gạo Nhật, còn phân khúc gạo cao cấp bán trên 1.000 USD như Nàng Hoa 9, ST…. Đáng chú ý, phân khúc gạo chất lượng cao của Việt Nam, gồm ST24, ST25 và các giống gạo thơm, đang ngày càng khẳng định vị thế ở những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Đây được coi là hướng đi bền vững trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Trong 6 tháng đầu năm nay, Việt Nam xuất khẩu khoảng 4,72 triệu tấn gạo, tăng 3,5% so với cùng kỳ, vượt Thái Lan với 3,73 triệu tấn (giảm mạnh 27,3%) so với cùng kỳ năm trước. Thành tích này giúp Việt Nam tạm nắm vị trí số hai toàn cầu, chỉ đứng sau Ấn Độ, quốc gia đã bán ra tới 11,68 triệu tấn, tăng 36,5% trong cùng thời gian kể trên. Các loại gạo đặc sản, như ST25, có giá xuất khẩu lên đến 1.200 USD/tấn, vượt qua các loại gạo thơm cao cấp của Thái Lan và Ấn Độ.

Vượt qua bao thách thức của thiên tai, địch họa và biến đổi khí hậu, các nhà khoa học dày công nghiên cứu, lai tạo, tìm ra phương pháp canh tác để tạo nên những giống gạo đạt năng suất cao, chất lượng thơm-ngon cơm. Hạt gạo Việt Nam từ chỗ cứu đói đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tự tin với danh xưng gạo ngon nhất thế giới trên thị trường quốc tế, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.

Tương lai cho cây lúa Việt Nam vẫn còn rộng mở, khi chúng ta đang tiến tới một nền sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững…

Tổ chức sản xuất: Hồng Minh
Nội dung:
Hồng Vân - Thiên Lam
Ảnh:
Báo Nhân Dân, Internet
Trình bày:
Diệp Linh