Mẫu mực quy hoạch xây dựng kinh đô ở phương Đông vào thời Lý


Năm 905, họ Khúc, một hào trưởng Việt lớn ở Hồng Châu (Hải Dương) nhân lúc nhà Đường suy yếu đã vùng lên chiếm phủ thành Đại La, chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho thời kỳ độc lập phục hưng văn hóa Việt. Thành Đại La tiếp tục tồn tại qua thời họ Khúc, họ Dương (Dương Đình Nghệ)...
Thời Đinh - Tiền Lê, năm 968, Đinh Tiên Hoàng xưng đế, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), nhưng đã sớm nhận ra và chú ý ngay đến vị trí trọng yếu của vùng đất Đại La. Sử cũ gọi miền đất Đại La thời Đinh - Tiền Lê là Kinh Phủ, hàm nghĩa đây là đơn vị hành chính lớn, quan trọng hàng đầu của Đại Cồ Việt. Điều này cũng được chứng minh khi khảo cổ học phát lộ ra lớp văn hóa và những di tích, di vật phong phú có niên đại Đinh - Tiền Lê ở khu vực 18 Hoàng Diệu. Đó là các di tích kiến trúc có móng cột kê chân tảng đã hoặc kê gỗ (có di tích đã xuất lộ rõ nền móng hình chữ nhật), các di tích mộ táng, các loại ngói âm dương, các đầu ngói có trang trí hoa sen, tượng uyên ương, gạch chữ nhật có chữ "Đại Việt quốc quân thành chuyên”, đầu tượng đá, tiền đồng "Thái Bình hưng bảo” và “Thiên Phúc trấn bảo”...
Dấu tích làng Việt cổ lớn thời Đinh - Tiền Lê vẫn tiếp tục phát triển ở khu vực Đàn Xã Tắc và khu vực Văn Miếu.

Dấu tích nền móng kiến trúc cung điện và lầu ngũ giác thời Lý. (Ảnh: Trung tâm bảo tồn di sản Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội)
Dấu tích nền móng kiến trúc cung điện và lầu ngũ giác thời Lý. (Ảnh: Trung tâm bảo tồn di sản Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội)
Như vậy, có thể nói, tiếp nối bước đi của các hào trưởng Khúc - Dương và Ngô Vương, trong những bước đi đầu tiên của nền độc lập non trẻ, văn hóa Việt Nam thời Đinh - Tiền Lê đã nhanh chóng bứt hẳn những ám ảnh của đêm trường Bắc thuộc, ngay lập tức tỏ rõ nét tự chủ, sáng tạo đầy bản lĩnh và tinh thần dân tộc rất cao (xưng Đế, đặt quốc hiệu, định quốc đô, đặt triều nghi...) tạo những tiền đề cơ bản vững chắc để văn hóa dân tộc nảy nở toàn diện vào thời Lý.
Thời Lý, khi đức Lý Thái Tổ quyết định định đô ở Thăng Long, miền đất Đại La - Kinh Phủ bừng lên một kinh đô rộng lớn, một Hoàng cung rực rỡ vàng son. Kinh đô Thăng Long giờ đây có 3 vòng thành lũy lớn, kiên cố bao bọc lẫn nhau. Vòng Cấm thành và vòng Hoàng thành chưa tìm thấy, nhưng vòng Đại La thành qua các vị trí khảo cổ học Đào Tấn, Đội Cấn, Cầu Giấy đã cho thấy rõ kỹ thuật trong đắp thành đất cực kỳ cao và độc đáo của thời Lý: Đầm nện từng lớp đất nhỏ (5cm - 10cm), đầm nện kết hợp giữa kỹ thuật dẫm chân với kỹ thuật đầm đinh, chiều cao nhất còn lại ở địa điểm Đào Tấn khoảng trên 5,50m, chân thành tại nút giao thông Bưởi rộng trên 20m. Đại La thành của Kinh đô Thăng Long về cơ bản đã hình thành và ổn định trong thời Lý.
Trung tâm kinh đô thời Lý bước đầu được khẳng định qua các cuộc khai quật tại khu vực 18 Hoàng Diệu, Vườn Hồng và khu vực Chính điện Kính Thiên. Tính chất trung tâm này được nhận biết bởi 3 đặc điểm lớn như sau:
- Tầng văn hóa thời Lý dày xấp xỉ 1m chồng trên các lớp văn hóa Đại La và Đinh - Tiền Lê.
- Các di tích kiến trúc Lý phong phú, đan xen dày đặc
- Các di vật thời Lý phong phú, đa dạng phân bố dày đặc
Ba đặc điểm như vậy được nhận rõ từ địa điểm 62-64 Trần Phú đến khu vực Trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Từ phía ngoài địa điểm 62 - 64 Trần Phú trở về phía Tây như khu vực Quần Ngựa đều không có các di tích Lý có đặc điểm tương tự. Phía ngoài Hoàng cung, các dấu tích kiến trúc Lý ở Văn Miếu, Đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao tạo nên một chỉnh thể cấu trúc đầy đủ Kinh đô Thăng Long thời Lý. Đó là cấu trúc kinh đô có 3 vòng thành bao bọc quanh một Hoàng cung lộng lẫy với tâm điểm là chính điện Càn Nguyên - Thiên An, trung tâm giáo dục Văn Miếu, các trung tâm lễ chế (Đàn Xã Tắc, đàn Nam Giao, đền Đồng Cổ, Thái Miếu), hệ thống chùa tháp cung quán... Tất cả tập trung đề cao quyền uy chính đáng của Hoàng đế, Hoàng gia nhà Lý.
Quy hoạch kiến trúc kinh đô thời Lý được các chuyên gia trong và ngoài nước nhận định là một trong những mẫu mực quy hoạch xây dựng kinh đô ở phương Đông với kỹ thuật xây dựng hết sức hoàn hảo.
Các kiến trúc Lý đều được xây dựng trên các nền đất đắp bằng loại đất sét nâu loang vàng và đỏ được đầm nện rất kỹ. Các kiến trúc Lý đều được trang trí các loại lá đề, các loại tượng rồng, phượng, uyên ương, sư tử, sấu thần, các loại đầu ngói trang trí rồng, hoa sen, hoa cúc với các đường nét tinh mỹ vào bậc nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam.
Từ kỹ thuật sản xuất gốm sứ thời Đinh - Tiền Lê, Thăng Long đã trở thành trung tâm sản xuất gốm sứ lớn nhất Việt Nam thời Lý: Các mảnh phế thải sống men, các mảnh bao nung có gắn mảnh sứ Lý ở các địa điểm 62 - 64 Trần Phú, Văn Cao, 18 Hoàng Diệu, Kính Thiên đã cho thấy rõ điều đó. Bước đầu đã có thể nhận thấy gốm Lý phục vụ kinh đô có 2 dòng: một dòng cao cấp (hẳn là dùng riêng trong Hoàng cung và Hoàng đế), một dòng bình dân (để dùng rộng rãi hơn trong xã hội). Dòng gốm cao cấp thời Lý hoàn hảo không kém gì gốm cao cấp thời Tống ở Trung Quốc về kỹ thuật, màu men và hoa văn.
Có thể nói, tổng thể kiến trúc, quy hoạch kinh đô, nghệ thuật Lý là một sự bùng nổ đạt trình độ rất cao, biểu hiện rõ bản lĩnh sáng tạo cao của văn hóa Việt trong giao thoa rộng mở với văn hóa các nước trong khu vực và thế giới, dưới ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo thế giới.
(Theo sách “Kinh đô Thăng Long: Những khám phá khảo cổ học” do PGS.TS Tống Trung Tín chủ biên-Nhà xuất bản Hà Nội 2019)