XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Mục tiêu tổng quát phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI nhấn mạnh yêu cầu: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa...”.
Dự báo trong những năm tới, tình hình thế giới và trong nước sẽ có nhiều khó khăn, thử thách, tác động trực tiếp, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, với bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch); tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp. Để tiếp tục đảm đương vai trò lãnh đạo trong giai đoạn mới, Đảng ta phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; nâng tầm bản lĩnh và trí tuệ, ngày càng thật sự vững vàng về tư tưởng chính trị, thống nhất cao về ý chí, hành động, trong sạch về đạo đức, lối sống, chặt chẽ về tổ chức và gắn bó mật thiết với nhân dân.
Từ thực tiễn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhiệm kỳ qua, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thống nhất các quan điểm chỉ đạo để tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong đó quan điểm thứ năm là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”.
“Khi kết nạp mỗi một đảng viên mới, cần phải dựa vào sáu tiêu chuẩn của người đảng viên.
Sáu tiêu chuẩn ấy là:
1. Suốt đời kiên quyết phấn đấu cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
2. Rèn luyện tư tưởng vô sản, sửa chữa tư tưởng sai lầm. Kiên quyết đứng hẳn trên lập trường giai cấp công nhân, không đứng chân trong chân ngoài.
3. Đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Biết đem lợi ích riêng của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng.
4. Tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng.
5. Liên hệ chặt chẽ với quần chúng.
6. Luôn luôn cố gắng học tập; thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí mình.
Đó là mấy tiêu chuẩn rất cần thiết để xứng đáng là người đảng viên.
Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Đảng mạnh thì mới làm tròn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang là: Lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc làm nền tảng vững chắc để thực hiện thống nhất nước nhà, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 12, tr. 355-356)
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là quan điểm có tính kế thừa, phát triển tinh thần của các kỳ Đại hội Đảng, đồng thời đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII khẳng định: “phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Với trách nhiệm Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, vai trò, ý nghĩa, hiệu quả hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện thông qua hiệu lực, hiệu quả hoạt động Nhà nước pháp quyền và hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể nhân dân. Xác định yêu cầu xây dựng Đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh chính là đặt tổ chức Đảng trong cơ cấu thống nhất của hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị, Đảng vừa là thành viên, vừa là hạt nhân lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách; đồng thời thông qua công tác cán bộ. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước và hệ thống chính trị.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nội dung cốt yếu của đổi mới chính trị, liên quan trực tiếp đến giữ vững ổn định chính trị-xã hội, tác động đến mọi mặt đời sống, quyết định tiền đồ sự nghiệp cách mạng. Do vậy, Đảng ta xác định xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải được tiến hành bài bản, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị liêm chính, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt, tạo động lực thúc đẩy xây dựng hệ thống chính trị; đồng thời, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tạo cơ sở vững chắc củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh giúp Đảng có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, nhân lên sức mạnh của toàn Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đặt ra yêu cầu xây dựng, hoàn thiện một cơ chế vận hành khoa học, hợp lý của hệ thống chính trị để kiểm soát quyền lực có hiệu quả, duy trì trật tự, kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Cùng với việc giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải tôn trọng, phát huy đầy đủ tính tích cực của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân lãnh đạo các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị, nhưng không bao biện, làm thay, mà phải coi trọng phát huy vai trò chủ động, tích cực trong quản lý, điều hành của Nhà nước và giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể nhân dân.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, việc kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đạt được kết quả quan trọng, rõ nét, có nhiều đổi mới. Nghị quyết 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017, của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” được triển khai thực hiện quyết liệt với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, có trọng tâm, trọng điểm, bước đầu đã khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm tồn tại trong thời gian dài.
Kế thừa những kết quả đạt được trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII xác định: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Các giải pháp được Đại hội XIII nhấn mạnh là: “Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị…, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”; “Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm”.
Đảng ta cũng xác định việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cần gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hoá các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội”.
Đại hội XIII cũng bổ sung một số giải pháp về xây dựng quy chế, quy định, quy trình và phương hướng, phong cách, lề lối làm việc để thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đó là: Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và "công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện". "Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền, chống tha hoá quyền lực; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương". "Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm".
“Các tổ chức đảng và đảng viên, nhất là tổ chức đảng, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát gắn với coi trọng việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở các cấp.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền; thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động theo hướng nâng cao tính giáo dục, thuyết phục, tính chiến đấu, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội trong tuyên truyền, vận động, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các văn bản cụ thể hóa và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.
Đẩy mạnh cải cách hành chính; tập trung rà soát hệ thống các văn bản của Đảng bảo đảm thống nhất, đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị; sửa đổi, bổ sung các văn bản có quy định chồng chéo, mâu thuẫn và hủy bỏ những văn bản không còn phù hợp. Tăng cường ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 2, tr. 254-256)
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về công tác cán bộ được Đảng ta quán triệt và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ, đặc biệt trong nhiệm kỳ Đại hội XII, với việc triển khai thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018, của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Từ thực tế, “công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, "lợi ích nhóm", bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”, Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”.
Coi trọng vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu, đặc biệt trong công tác cán bộ, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”.
Về cơ chế, chính sách đối với công tác cán bộ, Văn kiện Đại hội XIII xác định: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ. Kiên quyết phòng, chống các biểu hiện bè phái, "lợi ích nhóm" và lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ”.
Thực hiện các yêu cầu về công tác cán bộ đã được đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã bổ sung nhóm giải pháp về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Giải pháp này chỉ ra các yêu cầu quan trọng cần triển khai thực hiện trong thời gian tới để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung.
Đó là:
- Bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Gắn công tác cán bộ với thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo, trực tiếp, toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội.
- Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung.
- Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Bảo đảm quy định, quy trình, công tâm, khách quan, chặt chẽ, thận trọng trong công tác cán bộ. Không để lọt người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
- Thực hiện thí điểm một số chủ trương như: Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp. Tổng kết việc thí điểm thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.
- Nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ; tăng cường cán bộ cho địa bàn trọng điểm, lĩnh vực khó khăn, phức tạp. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí chức danh lãnh đạo chủ chốt không phải là người địa phương.
Trung ương Đảng đã tiến hành rà soát, sửa đổi các văn bản của Đảng liên quan đến các nội dung của công tác cán bộ, tổ chức bộ máy và trách nhiệm người đứng đầu.
Ngày 22/9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Kết luận này yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm, tạo sự thống nhất về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, đồng hành với sự năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ các cấp. Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tạo mọi điều kiện giúp cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Các ý tưởng, giải pháp, đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ phải được báo cáo với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị nơi công tác; được cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho thực hiện hoặc thực hiện thí điểm. Các ý tưởng, giải pháp đột phá phải bảo đảm không trái với Hiến pháp và Điều lệ Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tập thể, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quan tâm hỗ trợ nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ triển khai thực hiện. Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ những quan điểm mới trong bảo vệ cán bộ có trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách. Các cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện thí điểm các đề xuất đổi mới, sáng tạo; chủ động phát hiện những vấn đề nảy sinh, kịp thời động viên, hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hoặc xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế.
Ngày 3/11/2021, Bộ Chính trị ban hành Quy định 41-QĐ/TW về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Quy định này thay thế Quy định số 260-QĐ/TW ngày 2/10/2009 của Bộ Chính trị và có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Quy định 41-QĐ/TW có nhiều điểm mới, khắc phục những điểm chưa phù hợp so với quy định trước đây, đồng thời thể hiện quyết tâm chính trị cao trong xử lý cán bộ theo hình thức miễn nhiệm, từ chức. Đây là bước đột phá để siết chặt kỷ luật, kỷ cương đối với đội ngũ lãnh đạo quản lý các cấp.
Theo Quy định số 41, về miễn nhiệm đối với cán bộ, Bộ Chính trị quy định: Cấp có thẩm quyền quyết định cho cán bộ thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm do không đáp ứng được yêu cầu công việc, uy tín giảm sút, có vi phạm nhưng chưa đến mức xử lý kỷ luật cách chức.
Bộ Chính trị cũng đã quy định việc từ chức của cán bộ khi cán bộ tự nguyện xin thôi giữ chức vụ khi chưa hết nhiệm kỳ hoặc chưa hết thời hạn bổ nhiệm và được cấp có thẩm quyền chấp thuận, khi có đủ căn cứ theo quy định của Bộ Chính trị; chủ yếu do cán bộ hạn chế về năng lực, trách nhiệm hoặc không còn đủ uy tín để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; hoặc để cơ quan, đơn vị mình quản lý, phụ trách xảy ra sai phạm nghiêm trọng, hoặc có thể vì những lý do chính đáng khác của cá nhân.
Về thẩm quyền xem xét miễn nhiệm, từ chức được thực hiện theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Quy định đã xác định rõ: Cấp có thẩm quyền bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử theo quy định thì có thẩm quyền xem xét cho cán bộ miễn nhiệm, từ chức.
Căn cứ về việc miễn nhiệm, từ chức trong Quy định 41-QĐ/TW đã cơ bản bao quát đầy đủ các tình huống đặt ra trong thực tiễn và kịp thời động viên, khuyến khích để cán bộ chủ động từ chức; quy định cụ thể về cấp có thẩm quyền cho cán bộ miễn nhiệm, từ chức; chính sách động viên khi cán bộ thôi giữ chức vụ, từ chức. Về quy trình xem xét cho cán bộ miễn nhiệm, từ chức đã được rút ngắn thời gian và thống nhất thành một quy trình để thuận lợi trong tổ chức thực hiện.
Quy định 41-QĐ/TW đặc biệt xác định rõ việc miễn nhiệm, từ chức liên quan đến trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý, phụ trách hoặc để cấp dưới trực tiếp xảy ra tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Nếu người đứng đầu lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực thì tùy theo tính chất, mức độ của sai phạm để xem xét cho từ chức.
Kết luận số 14-KL/TW, Quy định số 41-QĐ/TW cùng với các quy định: Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018, của Ban Chấp hành Trung ương “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7/6/2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016, của Bộ Chính trị “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23/9/2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” là những văn bản pháp quy quan trọng của Đảng, bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
“Bệnh quan liêu mệnh lệnh tự đâu mà ra?
Nguyên nhân bệnh ấy là:
Xa nhân dân: Do đó, không hiểu tâm lý, nguyện vọng của nhân dân.
Khinh nhân dân: Cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy, không hiểu được chính trị, lý luận cao xa như mình.
Sợ nhân dân: Khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình, sợ mất thể diện, sợ phải sửa chữa.
Không tin cậy nhân dân: Họ quên rằng không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được.
Không hiểu biết nhân dân: Họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông.
Không yêu thương nhân dân: Do đó họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân. Thí dụ: Họ yêu cầu nhân dân đóng góp, nhưng không biết giúp đỡ nhân dân tăng gia sản xuất, cải thiện sinh hoạt, để bồi dưỡng sức của, sức người của nhân dân.
Có nơi, bệnh quan liêu mệnh lệnh trầm trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh dân, dọa nạt dân!
Bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là: hỏng việc. Vì vậy, chúng ta phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 176-177)
Kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh hơn nữa phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã cảnh báo, tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đối với đất nước và nó ngày càng tinh vi hơn. Ngày 1/2/2013, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, từ đó được chỉ đạo quyết liệt với cách làm bài bản và mang lại hiệu quả rõ rệt. Kể từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đến cuối năm 2020, các cơ quan tố tụng đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử 1.900 vụ án tham nhũng, với hơn 4.400 bị can. Riêng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo hơn 800 vụ án, vụ việc.
Nhiệm kỳ Đại hội XIII, với yêu cầu kiên quyết, kiên trì hơn nữa việc thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 16/9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 32-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (thay thế Quy định số 211-QĐ/TW, ngày 25/12/2019 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng). Việc bổ sung từ “tiêu cực” lần này nhằm bao quát được đầy đủ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo.
Phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được xác định: “Chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong phạm vi cả nước. Trực tiếp chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng hoặc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; các vụ án, vụ việc tiêu cực khác ngoài tham nhũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, phẩm chất đạo đức, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ (gọi chung hai loại vụ án, vụ việc này là vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm)”.
Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII cũng nhấn mạnh các giải pháp để cùng với ngăn chặn, đẩy lùi, là chủ động tiến công mạnh mẽ, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và có khiếu kiện kéo dài. Tập trung vào phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát người đứng đầu thực hiện trách nhiệm trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tập trung giám sát cán bộ, đảng viên có lời nói, việc làm, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý, kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ, đảng viên suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngay tại cơ sở, chi bộ, không để kéo dài hoặc "đùn đẩy" lên cấp trên. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tự phê bình và phê bình, thực hiện trách nhiệm nêu gương và khắc phục khuyết điểm của tập thể, cá nhân. Chủ động phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Tăng cường kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trước hết là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán có bản lĩnh vững vàng, liêm chính, trung thực, có dũng khí đấu tranh, có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chú trọng hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực và tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan phòng, chống, tham nhũng, tiêu cực.
Đây là bước đột phá mới, tiếp tục khẳng định quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không ngừng, không nghỉ, với mục đích cao nhất làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi và sự tin tưởng của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng.
Với yêu cầu đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, coi đây là giải pháp quan trọng để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh các yêu cầu về việc nêu gương, đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, coi trọng việc đấu tranh, phê phán các hành vi phi đạo đức, biểu dương gương sáng về đạo đức.
“Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan toả, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Coi trọng kiểm tra, giám sát trong Đảng kết hợp với phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên thực hiện các quy định nêu gương.
Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng các chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương các gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu rộng trong Đảng và ngoài xã hội”.
Ngày 25/10/2021, Ban Chấp Trung ương khoá XIII đã ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Quy định số 37-QĐ/TW kế thừa Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1/11/2011 của Ban Chấp Trung ương khoá XI, sửa đổi những nội dung không còn phù hợp, bổ sung, cập nhật những quy định mới của Đảng, Nhà nước và những vấn đề đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn để giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, tiêu cực, tha hoá quyền lực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức trong sáng, có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, luôn nêu cao tính tiên phong, gương mẫu. Nội dung từng điều trong Quy định 37-QĐ/TW thể hiện quan điểm kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn hành vi, hiện tượng, biểu hiện suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, tha hóa…, quyết tâm xây dựng đội ngũ đảng viên xứng đáng với danh hiệu người đảng viên cộng sản, người lãnh đạo và đày tớ trung thành của nhân dân.
Quy định 37-QĐ/TW có tính pháp quy cao, có tính khoa học, được xây dựng theo nhóm hành vi với các điều khoản chặt chẽ hơn, cụ thể hơn, rõ nội hàm, rõ hành vi, bảo đảm ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện; đồng thời dễ kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật khi đảng viên có dấu hiệu hoặc vi phạm.
Quy định về những điều đảng viên không được làm là một trong những cơ sở, chuẩn mực cho đảng viên phấn đấu, rèn luyện, nâng cao ý thức, trách nhiệm, gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương, Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của đảng viên, ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đây cũng là cơ sở để cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân giám sát đảng viên. Việc giám sát trong nội bộ tổ chức đảng và giám sát của nhân dân đối với đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
“Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, rất dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự phê bình, phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm, khách quan thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình.
Tôi nhớ nhà văn Nga Maksim Gorky có nói: “Con người - hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!”. Nhưng con người cũng có không ít tật: “Kém một miếng không chịu được”; “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng thì lộn gan lên đầu!”. Vì vậy, thường rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, trước thực trạng một số yếu kém, khuyết điểm như đã nói ở các phần trên, hơn lúc nào hết, Đảng ta càng phải đặc biệt coi trọng hơn nữa nhiệm vụ xây dựng Đảng như Đại hội XIII và Hội nghị Trung ương 4 lần này đã chỉ ra, tạo bước chuyển thật sự trong công tác này. Điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại.
Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên quyết, kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng sẽ dễ mất bình tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự cố gắng và kết quả chung”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
(Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngày 9/12/2021)
Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng
Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là một trong những quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta, được khẳng định trong các Cương lĩnh, Nghị quyết. Văn kiện Đại hội XIII đề ra yêu cầu: “Phát huy vai trò, sự tham gia của nhân dân trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân, giữa các vùng, địa phương; quan tâm đến các đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Tổ chức có hiệu quả, thực chất việc nhân dân tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”.
Văn kiện Đại hội XIII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó có 3 nhiệm vụ trọng tâm đề cập đến phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất nhấn mạnh: “Củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Nhiệm vụ trọng tâm thứ tư nêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam”. Nhiệm vụ trọng tâm thứ năm là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân…”.
Trong bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã một lần nữa nhấn mạnh: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu...”.
Quan điểm dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng được thể hiện ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn. Theo Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, quan điểm này được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản. Đó là, nhân dân trực tiếp và gián tiếp tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
“Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc.
Khuyết điểm to ở nhiều nơi là xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận không được cũng mặc. Những cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận. Đó là sai lầm rất to, rất có hại.
Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 6, tr. 233-234)
Đảng giữ mối quan hệ mật thiết với nhân dân, nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII yêu cầu: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp uỷ đảng về công tác cán bộ… Chú trọng giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và nêu gương của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức trong hệ thống chính trị”. Theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy đảng các chủ trương, đường lối lớn của Đảng; góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức đảng và chính quyền, phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là phát hiện những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, “lợi ích nhóm”. Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động đối thoại, tiếp công dân, việc tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và giải quyết những kiến nghị, phản ánh chính đáng, hợp pháp của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách trực tiếp, hiệu quả.
Cùng với Hiến pháp năm 2013, nhiều quy định đã được sửa đổi, bổ sung để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện nghiêm túc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” như: Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18/2/2019, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”; Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2/1/2020, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013, của Bộ Chính trị, “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”; Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7/1/2016, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Việc thực hiện nghiêm túc những quy định, quyết định, kết luận nêu trên sẽ tăng thêm cơ hội để nhân dân góp ý xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức về nhiều mặt; tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Nhân dân cũng gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do dân bầu; thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội. Nhân dân là người lựa chọn, bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan dân cử. Thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, những tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân đã được phản ánh đến các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc, những nội dung cần tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật… đều được bàn bạc, thảo luận công khai, xử lý phù hợp. Giải quyết nhanh chóng, thấu đáo những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc là một trong những yêu cầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan dân cử. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có thể tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ quan, đơn vị mình; tham gia giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức có quyền, những người làm ở những lĩnh vực dễ nảy sinh tham nhũng, tiêu cực…
Để Đảng ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, cần tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị. Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự "trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân". Tiếp tục cụ thể hóa phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”./.