Kinh tế tuần hoàn là một hành trình dài, đòi hỏi sự chung tay, đồng lòng và hành động quyết liệt từ mọi cấp độ. Các giải pháp đã được định hình, điều quan trọng là biến chúng thành hành động cụ thể, kiên trì và hiệu quả. Việc kết hợp hài hòa các giải pháp từ cấp vi mô (hộ gia đình, nông dân) đến cấp vĩ mô (chính sách, công nghệ, hạ tầng) sẽ là chìa khóa để Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, vựa lúa Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và Việt Nam nói chung phát triển mạnh mẽ kinh tế tuần hoàn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
BÀI 2:
GIẢI MÃ "ĐIỂM NGHẼN" PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN
*****
Từ những trang trại "ba nhà" khép kín ở Đồng bằng sông Cửu Long đến các khu công nghiệp sinh thái đang định hình ở Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những mô hình tiên phong đã và đang chứng minh xu thế phát triển bền vững của kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, đằng sau bức tranh tươi sáng ấy, con đường phát triển kinh tế tuần hoàn vẫn còn lắm "điểm nghẽn" và rào cản cần được tháo gỡ.
Những điểm nghẽn
Dù được kỳ vọng là "chìa khóa xanh" cho phát triển bền vững, con đường đi của các mô hình kinh tế tuần hoàn trên địa bàn phía nam vẫn còn lắm chông gai, từ nhận thức đến công nghệ và chính sách.
Thách thức đầu tiên đối với sự phát triển của kinh tế tuần hoàn trên địa bàn không nằm ở công nghệ hay tài chính, mà ở tư duy và nhận thức của các bên liên quan. Mặc dù khái niệm kinh tế tuần hoàn đã được pháp luật hóa và nhận được sự quan tâm lớn, nhưng nhận thức về tầm quan trọng, lợi ích và cách thức triển khai vẫn chưa thực sự sâu rộng và đồng đều ở mọi cấp độ, từ nhà quản lý, doanh nghiệp đến người dân. Tư duy kinh tế tuyến tính truyền thống "khai thác - sản xuất - tiêu dùng - thải bỏ" đã ăn sâu hàng thế kỷ, tạo ra thói quen và cách thức vận hành khó thay đổi. Các doanh nghiệp vẫn ưu tiên lợi nhuận trước mắt, ngại đầu tư lớn ban đầu cho công nghệ và quy trình mới, xem kinh tế tuần hoàn là chi phí thay vì cơ hội. Trong cộng đồng, niềm tin vào sản phẩm tái chế còn thấp.
Ông Bùi Xuân Hùng, Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng 2 (Đồng Nai), một trong những doanh nghiệp xử lý, tái chế chất thải công nghiệp lớn nhất tỉnh, chia sẻ: "Thực tế đầu ra cho các sản phẩm tái chế rất khó để tiêu thụ". Dù đã tìm mọi cách tiếp thị ở các hội chợ, triển lãm, cửa hàng, sản phẩm tái chế vẫn khó bán. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường đầu ra của chuỗi tuần hoàn và khiến doanh nghiệp ngần ngại đầu tư.
Tái chế từ rác thải nhựa công nghiệp tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng 2. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
Tái chế từ rác thải nhựa công nghiệp tại Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng 2. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
Để chuyển hóa chất thải thành tài nguyên, cần có công nghệ xử lý tiên tiến và hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều công nghệ hiện có ở Việt Nam còn lạc hậu, chi phí cao, hoặc chưa đáp ứng được yêu cầu về quy mô và chất lượng đầu ra. Ông Bùi Xuân Hùng cho biết, để làm ra sản phẩm tái chế đòi hỏi doanh nghiệp đầu tư máy móc, nhà xưởng kinh phí lớn và đối tác nước ngoài chuyển giao công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó, hạ tầng thu gom, phân loại và tái chế chưa đồng bộ. Việc phân loại rác tại nguồn chưa thực sự hiệu quả, hệ thống thu gom và vận chuyển chưa tối ưu. Lượng rác thải sinh hoạt được thu gom thường lưu giữ trong khu dân cư từ 1 đến 3 ngày, đã bắt đầu phân hủy, gây mùi rất khó chịu, ảnh hưởng lớn đến cộng đồng xung quanh các tuyến đường vận chuyển rác. Điều này gây khó khăn lớn cho các cơ sở tái chế, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả của chuỗi tuần hoàn. Hiện nay, các nhà máy xử lý chất thải hiện có (đặc biệt là tái chế) chưa đáp ứng được lượng rác thải khổng lồ, dẫn đến nhiều bãi rác quá tải chưa được xử lý triệt để. Hơn nữa, chi phí đầu tư ban đầu cao cho công nghệ mới, hệ thống xử lý, hoặc thay đổi quy trình sản xuất để áp dụng kinh tế tuần hoàn cũng là một rào cản lớn, gây áp lực tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực tế đầu ra cho các sản phẩm tái chế rất khó để tiêu thụ
Ông Bùi Xuân Hùng chia sẻ: “Chi phí đầu tư cho nhà máy tái chế của công ty ông lên đến khoảng 200 tỷ đồng. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp nhỏ không đủ điều kiện để tự thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn”.
Tại Đồng Nai, cùng với quá trình phát triển công nghiệp nhanh cũng phát sinh nhiều điểm nóng về ô nhiễm môi trường. Mới đây, qua kết quả quan trắc các nguồn thải và các thành phần môi trường tại khu công nghiệp Biên Hòa 1, nằm sát sông Đồng Nai, xuất hiện các dấu hiệu đáng báo động ô nhiễm cả về nước, không khí, đất. Cụ thể, đối với chất lượng nguồn nước mặt, kết quả quan trắc đối với sông Đồng Nai đoạn chảy qua khu công nghiệp Biên Hòa 1, ở mức trung bình theo quy chuẩn QCVN 08:2023/BTNMT do ô nhiễm hữu cơ và vi sinh tần suất phát hiện ô nhiễm khá cao, đặc biệt là vào mùa khô. Chất lượng môi trường không khí, thông số bụi kích thước nhỏ (PM10) vượt so quy chuẩn tại một số thời điểm quan trắc với tần suất phát hiện ô nhiễm tập trung các thời điểm từ tháng 2 đến tháng 6. Về chất lượng môi trường đất, có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ, đã phát hiện thông số chì (Pb) vượt quy chuẩn cho phép từ 1,01 đến 2,45 lần so quy chuẩn QCVN 03:2023/BTNMT.
Đáng chú ý, cơ quan chức năng đã phát hiện một số đối tượng lợi dụng việc di dời khu công nghiệp này cố tình đổ, chôn chất thải trong phạm vi của khu công nghiệp Biên Hòa 1. Trong đó, có ba vụ việc đã phát hiện có dấu hiệu vi phạm hình sự đã được điều tra, xác minh, xử lý và khắc phục ô nhiễm môi trường.
Sản phẩm từ tái chế rác thải nhựa công nghiệp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng 2. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
Sản phẩm từ tái chế rác thải nhựa công nghiệp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng 2. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
Cần "cú hích" mạnh mẽ hơn về chính sách và cơ chế
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam đặt vấn đề: "Phải đa lợi ích, đa dạng sản phẩm để tiêu thụ và xử lý nguồn rơm rạ rất lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long". Tuy nhiên, các giải pháp hiện tại như đầu tư nhà máy điện sinh khối sử dụng rơm hay phát minh các chế phẩm sinh học mới chỉ giải quyết được một phần nhỏ lượng rơm rạ hiện có, chưa đủ tạo động lực. Việc thiếu cơ chế định giá chất thải/phụ phẩm cũng là một thách thức, khiến chất thải chưa được coi là "tài nguyên" có giá trị rõ ràng, làm cho việc mua bán, trao đổi giữa các doanh nghiệp gặp khó khăn. Việc thiếu các sàn giao dịch hay trung tâm kết nối cung – cầu chất thải/phụ phẩm giữa các ngành cũng cản trở sự hình thành chuỗi tuần hoàn hiệu quả.
Bà Lữ Thị Nhật Hằng, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Ngũ Thường Mekong tại thành phố Cần Thơ nhấn mạnh: “Việc nuôi trùng để cho cá ăn, rơm thì trồng nấm rồi dùng làm giá thể để nuôi trùng, làm bón phân cho cây mang lại hiệu quả cao hơn rất nhiều lần làm thông thường”.
Hiện nay ngành nông nghiệp thành phố Cần Thơ đang khuyến cáo người dân phát triển nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, đây cũng là chuỗi mắc xích của kinh tế tuần hoàn. Sau khi trồng nấm rơm xong có rơm phế phẩm nông dân tiếp tục ủ lại thành phân, bón ngược lại cây ăn trái hoa màu, cũng có một số điểm nông dân bón cho cỏ rồi nuôi bò... Với mục tiêu là rơm rạ sẽ được thu gom và giải quyết theo chuỗi giá trị: 30% trồng nấm, 35% phủ gốc cây trồng và đệm lót vận chuyển trái cây, 25% làm thức ăn cho gia súc, 10% sử dụng khác. Từ đó, góp phần tăng thêm giá trị và nguồn thu nhập cho người trồng lúa trên cùng diện tích canh tác và làm giảm phát thải khí nhà kính từ trồng lúa, tiến tới thực hiện cam kết của Chính phủ về ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó có mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Tận dụng rơm để trồng nấm, làm thức ăn cho bò và nuôi trùn quế. (Ảnh: PHÙNG DŨNG)
Tận dụng rơm để trồng nấm, làm thức ăn cho bò và nuôi trùn quế. (Ảnh: PHÙNG DŨNG)
Trồng cỏ voi làm thức ăn cho bò. (Ảnh: PHÙNG DŨNG)
Trồng cỏ voi làm thức ăn cho bò. (Ảnh: PHÙNG DŨNG)
Nuôi trùn quế - một trong những đối tượng nuôi trong mô hình kinh tế tuần hoàn của bà Lữ Thị Nhật Hằng. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
Nuôi trùn quế - một trong những đối tượng nuôi trong mô hình kinh tế tuần hoàn của bà Lữ Thị Nhật Hằng. (Ảnh: THIÊN VƯƠNG)
"Phải đa lợi ích, đa dạng sản phẩm để tiêu thụ và xử lý nguồn rơm rạ rất lớn tại Đồng bằng sông Cửu Long".
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường
Trần Thanh Nam
Dù đã có Luật Bảo vệ Môi trường 2020 và Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn, nhưng các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện, và các chính sách khuyến khích (thuế, tín dụng, hỗ trợ công nghệ) vẫn chưa thực sự đủ mạnh mẽ, cụ thể và đồng bộ để tạo động lực rõ ràng cho doanh nghiệp và người dân.
Theo ông Bùi Xuân Hùng, từ góc độ doanh nghiệp, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để các sản phẩm tái chế đến tay người tiêu dùng gần như chưa có, hay chính xác hơn là doanh nghiệp chưa thấy trong thực tiễn. Một trong những rào cản lớn nhất đối với việc mở rộng các mô hình kinh tế tuần hoàn là chi phí đầu tư ban đầu lớn. Việc thay đổi quy trình, công nghệ, mua sắm thiết bị mới đòi hỏi vốn lớn, điều này đặc biệt khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều nông hộ cũng chưa thực sự đủ điều kiện để tự thực hiện mô hình kinh tế tuần hoàn. Thị trường cho sản phẩm tái chế vẫn còn non trẻ và khó khăn trong việc tiêu thụ đầu ra. Sản phẩm từ quá trình tái chế đôi khi có giá thành chưa cạnh tranh so với sản phẩm mới hoặc chưa được người tiêu dùng chấp nhận rộng rãi. Niềm tin vào chất lượng sản phẩm tái chế còn thấp, dù các doanh nghiệp như Thanh Tùng đã nỗ lực cải tiến mẫu mã và chất lượng.
Các tỉnh, thành phố phía nam hiện đối mặt với thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Để phát triển và vận hành các mô hình kinh tế tuần hoàn, cần có đội ngũ chuyên gia, kỹ sư có kiến thức và kỹ năng về môi trường, công nghệ tái chế, thiết kế sản phẩm bền vững. Kỹ năng quản lý và vận hành một chu trình sản xuất tuần hoàn phức tạp, đòi hỏi kỹ năng quản lý, phân tích và tối ưu hóa chuỗi cung ứng mới.
Tại Hội thảo khoa học “Ứng dụng khoa học và công nghệ trong xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn phục vụ phát triển kinh tế xã hội Thành phố Hồ Chí Minh” (tổ chức cuối năm 2023), bàn về giải pháp cần thiết và đồng bộ tạo sự đột phá từ tư duy đến hành động về kinh tế tuần hoàn trong các trường đại học và các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh, đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Đào tạo Lãnh đạo và Dịch vụ Phát triển Bền vững cho rằng Sự kết nối của Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, phía tây, với các địa phương khác của cả nước và quốc tế chưa xứng tầm, còn những điểm nghẽn, “nút thắt”, thành phố vẫn thiếu cả về lượng và chất một đội ngũ chuyên nghiệp đủ để đào tạo và thực hành về kinh tế tuần hoàn trong tất cả các quận huyện. Trường Đại học có thể nói là một môi trường đủ điều kiện, đủ năng lực, khá hoàn chỉnh các yếu tố cần và đủ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đặc thù chuyên trách hoặc bán chuyên trách về phụ trách công tác kinh tế tuần hoàn. Do đó các trường chủ động tìm kiếm người học là các doanh nhân đang làm việc tại các doanh nghiệp có đam mê kinh tế tuần hoàn để đào tạo và tạo nguồn hợp tác trong tương lai. Người học là học viên có thể học thêm nghề quản trị kinh tế tuần hoàn hoặc chuyển đổi nghề.
Con đường phát triển kinh tế tuần hoàn ở các tỉnh phía nam nói riêng và Việt Nam nói chung vẫn còn nhiều "điểm nghẽn" và rào cản từ nhận thức, công nghệ, hạ tầng, chính sách, tài chính đến nguồn nhân lực. Việc vượt qua những thách thức này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức nghiên cứu và cộng đồng.
*****
Ngày xuất bản: 10/2025
Tổ chức: Trường Sơn, Lưu Quốc Thắng, Hồng Vâm
Nội dung: Nhóm tác giả Lưu Quốc Thắng, Thiên Vương,Trịnh Bình, Phùng Dũng và Văn Út
Trình bày: Hải Nam
Ảnh: Báo Nhân Dân, baochinhphu.vn
