Giáo dục đại học – Nghiên cứu khoa học:
Tầm nhìn, lộ trình và nguồn lực

Loạt 3 bài với chủ đề “Giáo dục đại học – nghiên cứu khoa học: Tầm nhìn, lộ trình và nguồn lực” đã vẽ nên một bức tranh chiến lược và mạch lạc nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam vươn tầm thế giới. Được xây dựng như một luận điểm thống nhất, loạt bài đã xác lập tầm nhìn cấp quốc gia, đồng thời đề xuất một kế hoạch hành động cụ thể và đi sâu vào một giải pháp then chốt để biến khát vọng thành hiện thực.

Bài viết mở đầu trả lời câu hỏi “Tại sao?” Việt Nam phải thực hiện một cuộc cách mạng trong giáo dục đại học, đồng thời chỉ ra rằng các Nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị đã tạo ra một “bước ngoặt thể chế” quan trọng để bắt đầu hành động. Nối tiếp tầm nhìn đó, bài viết thứ hai đi sâu trả lời câu hỏi “Làm gì?” bằng cách xây dựng một lộ trình hành động cụ thể và táo bạo được dựng trên bốn trụ cột chính: một thể chế quản trị hiện đại với Hội đồng Tín thác thực quyền; nguồn lực tài chính vượt trội thông qua đầu tư chiến lược của nhà nước và cơ chế Quỹ Hiến tặng; chính sách thu hút nhân tài toàn cầu; và các trung tâm nghiên cứu đỉnh cao cùng những “think tank” liên ngành để giải quyết bài toán chiến lược quốc gia. Cuối cùng, bài viết thứ ba giải quyết câu hỏi “Làm như thế nào?” đối với một trong những trụ cột quan trọng nhất, đó là tự chủ tài chính bền vững.

Ba bài viết đã đề xuất một kế hoạch xuyên suốt và khả thi cho hành trình đưa giáo dục đại học Việt Nam ghi danh lên bản đồ tri thức của nhân loại.

Năm 2025 - với dấu mốc lịch sử 80 năm dựng và giữ Nước – là một chặng đường đủ dài để nhìn lại lịch sử đã qua và định hướng cho tương lai phía trước. Từ những bước khởi đầu đầy gian nan, Việt Nam đã kiên cường vượt qua chiến tranh, tái thiết đất nước trong hòa bình và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Từ một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, trở thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế và đang hướng đến mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, sớm trở thành nước có thu nhập cao. Đó là kết quả của một dân tộc luôn không ngừng nỗ lực, với nội lực, tầm nhìn và khát vọng vươn lên.

Xét về mô hình phát triển, những thành tựu kinh tế đạt được trong tám thập kỷ qua là minh chứng cho khả năng thích ứng linh hoạt và việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước. Thế nhưng, bước vào một thời đại mới – nơi tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực cốt lõi cho tăng trưởng – Việt Nam cần tìm ra các nền tảng phát triển mới, tạo ra những lực đẩy mới cho tương lai. Vai trò của Việt Nam sẽ ngày càng chuyển từ “theo sau” sang “dẫn dắt và kiến tạo”. Trong quá trình này, giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học sẽ giữ vai trò then chốt, mang tính quyết định cho bước chuyển mình chiến lược của đất nước.

Việc hình thành một hệ sinh thái tri thức – nơi bồi dưỡng nhân tài, tạo ra tri thức mới, gắn kết với doanh nghiệp và lan tỏa giá trị đến xã hội – sẽ là yếu tố quyết định liệu Việt Nam có thực sự bứt phá trong các thập kỷ tới hay không. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính chiến lược, mà còn là hành trang cấp thiết để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hải
Phó Trưởng Đại diện Đại học Hồng Kông tại Việt Nam

Trong tất cả các yếu tố góp phần xây dựng sức mạnh của một quốc gia hiện đại, không có yếu tố nào mang tính bền vững và có sức ảnh hưởng quyết định như chất lượng giáo dục và năng lực nghiên cứu khoa học. Các quốc gia phát triển – dù theo bất kỳ mô hình nào – cũng đều có điểm chung là đầu tư bài bản vào giáo dục đại học và xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu, đổi mới sáng tạo rộng mở, năng động và gắn chặt với nền kinh tế thực.

Hầu hết các quốc gia thành công đều bắt đầu bằng những cải cách thể chế đột phá trong giáo dục: Nhật Bản dưới thời Minh Trị đã thành lập Đại học Hoàng gia để tiếp nhận tri thức phương Tây; Trung Quốc với các chương trình 985 và 211 đầu tư trọng điểm vào các trường đại học để nâng cao chuẩn mực; Đức với mô hình đại học nghiên cứu tích hợp cùng viện khoa học ứng dụng và chính sách quốc gia “AI Made in Germany” (Trí tuệ nhân tạo sản xuất tại Đức).

Hàn Quốc cũng đạt được những bước tiến vượt bậc trong khoa học và nghiên cứu: số lượng nhà nghiên cứu toàn thời gian đã tăng lên hơn 236.000 người – cao hơn cả Pháp và Anh – cùng với sự bùng nổ về số lượng bài báo khoa học quốc tế, từ 1.382 bài năm 1990 lên hơn 26.690 bài mỗi năm vào năm 2008. Quốc gia này từng triển khai chương trình quốc gia có tên Chương trình phát triển công nghệ dẫn dắt G7 (The G7 Leading Technology Develop Program), với tổng vốn đầu tư hơn 7 tỷ USD trong giai đoạn 1992–2001, nhằm tạo ra công nghệ mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thực chất.

Singapore xác định ngay từ đầu rằng con người là tài nguyên quý giá nhất. Chính phủ nước này không đầu tư đại học một cách đại trà, mà phân bổ hợp lý giữa hệ cao đẳng và đại học dựa trên nhu cầu phát triển. Năm 2020, họ đầu tư hơn 10.397 tỷ đô la Singapore (SGD) cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, trong đó khu vực tư nhân đóng góp hơn 63% – minh chứng cho mối quan hệ chặt chẽ giữa đại học và doanh nghiệp.

Israel là quốc gia dẫn đầu thế giới về tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển so với GDP (4,3% vào năm 2015). Dù chỉ chiếm 0,1% dân số thế giới, quốc gia này lại đóng góp tới 0,9% số bài báo khoa học quốc tế – gấp 9 lần tỷ lệ dân số. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại đây được thúc đẩy bởi các chương trình như Yozma, chính sách khởi nghiệp và sự kết nối chặt chẽ giữa chính phủ – trường đại học – doanh nghiệp.

Việt Nam – ở thời điểm có tính bước ngoặt như hiện nay – cần coi những bài học trên như kim chỉ nam để soi đường phát triển.

Việt Nam đã từng có những giai đoạn đột phá nhờ giáo dục và nghiên cứu.

Thực tế, Việt Nam đã từng có những giai đoạn đột phá nhờ giáo dục và nghiên cứu. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dù các trường đại học phải sơ tán lên miền núi vẫn có thể đào tạo nên nhiều thế hệ trí thức ưu tú. Ở thời kỳ đầu của công cuộc phát triển, các chương trình hợp tác với Liên xô (cũ) và các chương trình sau này như 322 và Đề án 911, đã đưa hàng chục nghìn giảng viên, nghiên cứu sinh ra nước ngoài học tập, hình thành lớp cán bộ khoa học kế cận có chất lượng cao.

Tuy nhiên, những chương trình đó mới chỉ mang tính giai đoạn, chưa đủ để tạo nên đột phá về thể chế. Giờ đây, điều Việt Nam cần là một thiết kế chiến lược có tầm nhìn dài hạn và toàn diện hơn.

"Các quốc gia phát triển – dù theo bất kỳ mô hình nào – cũng đều có điểm chung là đầu tư bài bản vào giáo dục đại học và xây dựng một hệ sinh thái nghiên cứu, đổi mới sáng tạo rộng mở, năng động và gắn chặt với nền kinh tế thực".

Mặc dù giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ trong vài thập kỷ qua, nhưng nhìn tổng thể và một cách thẳng thắn, hệ thống vẫn còn đang đối mặt với nhiều điểm nghẽn mang tính cơ cấu.

Thứ nhất, vấn đề tự chủ đại học vẫn nặng tính hình thức. Nhiều trường đại học được công bố là “tự chủ”, nhưng thực tế vẫn còn phụ thuộc vào chỉ tiêu biên chế, ngân sách nhà nước hoặc bị ràng buộc bởi các quy định chưa chặt thẽ nên khó theo kịp nhu cầu thực tiễn. Các hoạt động như bổ nhiệm lãnh đạo, mở ngành mới, hay hợp tác quốc tế vẫn bị điều phối bởi các thủ tục hành chính, thay vì để trường tự quyết và chịu trách nhiệm trước xã hội một cách minh bạch.

Thứ hai, môi trường nghiên cứu hiện chưa đủ sức hấp dẫn. Dù số lượng bài báo công bố quốc tế gia tăng, nhưng nhiều hoạt động nghiên cứu vẫn thiếu sự liên kết giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và chính sách. Sự thiếu hụt các quỹ nghiên cứu có cơ chế linh hoạt, không gian sáng tạo tự do, cũng như chính sách đãi ngộ tương xứng đã khiến nhiều nhân tài lựa chọn tìm kiếm cơ hội ở nơi khác, thậm chí là ở nước ngoài.

Sự thiếu hụt các quỹ nghiên cứu có cơ chế linh hoạt, không gian sáng tạo tự do, cũng như chính sách đãi ngộ tương xứng đã khiến nhiều nhân tài lựa chọn tìm kiếm cơ hội ở nơi khác, thậm chí là ở nước ngoài.

Thứ ba, hợp tác quốc tế còn hạn chế. Sự có mặt của các trường đại học nước ngoài tại Việt Nam vẫn mang tính thử nghiệm. Các chương trình liên kết đào tạo chưa được định hướng theo chiến lược dài hạn, mà thường phụ thuộc vào quan hệ cá nhân hoặc cơ chế “xin – cho”. Việc thu hút các đại học hàng đầu thế giới đến triển khai chương trình, mở văn phòng đại diện hoặc viện nghiên cứu vẫn đang vướng mắc bởi rào cản pháp lý và tư duy quản lý lạc hậu.

Ảnh: VGP

Ảnh: VGP

Để bứt phá, Việt Nam cần đồng thời hội tụ ba điều kiện cốt lõi sau:

Một là, thể chế cởi mở thực chất: Trao quyền tự chủ thực sự cho các trường, cho phép triển khai nhanh chóng các chương trình hợp tác quốc tế, thành lập viện nghiên cứu song phương và xây dựng các cơ chế tài chính đặc thù.

Hai là, đầu tư có trọng tâm và hiệu quả: Hình thành các quỹ nghiên cứu khoa học độc lập, vận hành theo chuẩn quốc tế, cấp tài trợ dựa trên chất lượng thực tế thay vì thủ tục hành chính.

Ba là, chính sách giữ chân và thu hút nhân tài: Đưa ra chế độ đãi ngộ đủ sức hấp dẫn để thu hút chuyên gia Việt Nam từ nước ngoài trở về, nhà khoa học quốc tế đến làm việc lâu dài, và tạo điều kiện để các giảng viên trẻ toàn tâm toàn ý với nghề.

Xác định hướng đi để ngành dược phát triển cao hơn - Ảnh 1.

Ảnh: VGP

Ảnh: VGP

Giai đoạn 2024–2025 được xem là bước ngoặt thể chế quan trọng khi Bộ Chính trị ban hành liên tiếp bốn nghị quyết có vai trò định hình chiến lược phát triển bền vững cho đất nước. Không chỉ xác định định hướng lâu dài, các nghị quyết này còn mở đường về mặt pháp lý để cải cách giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học theo hướng thực chất và bền vững.

Nghị quyết số 57-NQ/TW: Khẳng định vai trò trung tâm của đổi mới sáng tạo trong phát triển quốc gia. Với giáo dục đại học, nghị quyết thúc đẩy tích hợp công nghệ và tinh thần khởi nghiệp vào chương trình đào tạo; phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn kết với doanh nghiệp; đồng thời tạo điều kiện để giảng viên và nhà nghiên cứu thương mại hóa kết quả nghiên cứu một cách minh bạch.

Nghị quyết số 59-NQ/TW: Tạo hành lang pháp lý để mở rộng sự hiện diện của các trường đại học quốc tế tại Việt Nam dưới nhiều hình thức linh hoạt như trung tâm nghiên cứu, văn phòng đại diện hay chương trình liên kết đào tạo. Nghị quyết cũng khuyến khích các trường đại học trong nước chủ động hợp tác và cấp bằng chung mà không bị ràng buộc bởi quy trình phê duyệt cứng nhắc, đồng thời nhấn mạnh đến việc thu hút giảng viên và nhà khoa học quốc tế theo hướng cạnh tranh toàn cầu.

Nghị quyết số 66-NQ/TW: Đóng vai trò bảo đảm thể chế cho tự chủ đại học – không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà cần được cụ thể hóa bằng quyền tự quyết về tuyển dụng, tài chính và học thuật. Bên cạnh đó, Nghị quyết yêu cầu hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu và tạo khuôn khổ pháp lý rõ ràng cho hợp tác giáo dục quốc tế.

Nghị quyết số 68-NQ/TW: Lần đầu tiên đặt kỳ vọng cụ thể vào vai trò của khu vực tư nhân trong đổi mới giáo dục đại học. Đây là nền tảng để thúc đẩy mô hình hợp tác công – tư, từ tài trợ học bổng, đầu tư nghiên cứu chung, đến thành lập trung tâm khoa học ứng dụng và đồng xây dựng chương trình đào tạo gắn với nhu cầu nhân lực của thị trường.

Bốn nghị quyết tạo thành một cấu trúc thể chế đồng bộ, mở đường cho các trường đại học Việt Nam trở thành những trung tâm đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đóng góp vững chắc vào sự phát triển trong kỷ nguyên mới.

Tổng thể, cả bốn nghị quyết tạo thành một cấu trúc thể chế đồng bộ, mở đường cho các trường đại học Việt Nam trở thành những trung tâm đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đóng góp vững chắc vào sự phát triển trong kỷ nguyên mới.

Ảnh: VGP

Ảnh: VGP

Các nghị quyết này còn mở đường về mặt pháp lý để cải cách giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học theo hướng thực chất và bền vững.

Để giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học thật sự trở thành động lực chiến lược trong hành trình phát triển, Việt Nam cần triển khai đồng bộ những bước sau:

Thứ nhất, cần sửa đổi Luật Giáo dục đại học theo hướng cụ thể hóa và minh bạch quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, đồng thời tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các mô hình hợp tác quốc tế, nghiên cứu ứng dụng và đổi mới sáng tạo.

Ảnh: VGP

Ảnh: VGP

Thứ hai, thành lập Quỹ Nghiên cứu Quốc gia với cơ chế vận hành độc lập, có sự tham gia của hội đồng thẩm định quốc tế. Việc phân bổ ngân sách cần dựa vào hiệu quả thực tế của dự án thay vì các chỉ tiêu hành chính cứng nhắc.

Thứ ba, xây dựng mô hình hợp tác ba bên giữa đại học – doanh nghiệp – chính phủ (triple helix), nhằm kết nối hoạt động nghiên cứu với sản xuất thực tiễn và gắn đào tạo với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế.

Xây dựng mô hình hợp tác ba bên giữa đại học – doanh nghiệp – chính phủ (triple helix), nhằm kết nối hoạt động nghiên cứu với sản xuất thực tiễn và gắn đào tạo với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế.

Thứ tư, có cơ chế đặc thù để thu hút và giữ chân nhân tài: cho phép ký hợp đồng linh hoạt, trả lương cạnh tranh, tạo điều kiện làm việc thuận lợi và đảm bảo đời sống cho các nhà khoa học.

Thứ năm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, khuyến khích các trường đại học quốc tế mở chi nhánh, trung tâm nghiên cứu hoặc chương trình liên kết tại Việt Nam. Cần cho phép áp dụng các mô hình học thuật đa dạng, linh hoạt, đa ngôn ngữ, đa hình thức.

Cuối cùng, phát triển hệ thống đánh giá độc lập, công khai và minh bạch. Việc đánh giá không chỉ dựa vào số lượng công bố khoa học mà cần chú trọng đến tác động thực tiễn, mức độ hài lòng của người học và năng lực cạnh tranh quốc tế.

"Không quốc gia nào có thể tiến xa nếu thiếu một nền giáo dục đại học vững mạnh và một môi trường nghiên cứu khoa học cởi mở, năng động, sáng tạo".

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hải

Ảnh: VietnamPlus

Ảnh: VietnamPlus

Không quốc gia nào có thể tiến xa nếu thiếu một nền giáo dục đại học vững mạnh và một môi trường nghiên cứu khoa học cởi mở, năng động, sáng tạo. Không có trí tuệ nào có thể phát triển trong sự gò bó, đóng kín, thiếu kết nối với thế giới.

Lịch sử cho thấy: mỗi khi Việt Nam muốn vươn lên, chúng ta đều phải giải phóng sức mạnh trí tuệ. Trong kỷ nguyên hiện nay, đó không chỉ là một lựa chọn – mà là con đường duy nhất để đi tới tương lai.

Giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học – nếu được trao cơ hội đúng nghĩa – sẽ không chỉ là nền tảng, mà còn là hành trang của một dân tộc đang trỗi dậy, tự tin vươn mình và chinh phục tương lai bằng chính khát vọng và nội lực của mình.

Giáo dục đại học

Nghiên cứu khoa học

NỀN TẢNG CHO MỘT QUỐC GIA MẠNH

Kiến tạo đại học tinh hoa

Lộ trình đưa Việt Nam vào bản đồ học thuật thế giới

Quỹ hiến tặng

"Trái tim" tài chính cho khát vọng đại học tinh hoa

Ngày xuất bản: 1/10/2025
Tổ chức thực hiện: Xuân Bách
Nội dung: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Hải
Phó Trưởng đại diện Đại học Hong Kong tại Việt Nam
Trình bày: Ngọc Diệp
Ảnh: Báo Nhân Dân, VGP, Vietnamplus