Biến đổi khí hậu

Mối đe dọa toàn cầu

Biến đổi khí hậu được cho là mối đe dọa lớn nhất đối với sức khỏe con người, đồng thời cũng là thách thức lớn nhất mà nhân loại đang phải đối mặt trong thế kỷ 21. Vậy biến đổi khí hậu là gì và nó tác động đến đời sống con người ra sao?

Thực trạng biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu là gì?

Biến đổi khí hậu đề cập đến sự thay đổi lâu dài về nhiệt độ và các hình thái thời tiết. Những thay đổi này có thể là tự nhiên, chẳng hạn như thông qua các biến động trong chu kỳ Mặt Trời. Nhưng kể từ những năm 1800, các hoạt động của con người đã trở thành nguyên nhân chính gây nên biến đổi khí hậu, chủ yếu do việc đốt nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên.

Quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra lượng phát thải khí nhà kính rất lớn, có chức năng giống như một “tấm chăn” quấn quanh Trái Đất giữ nhiệt của Mặt Trời trong bầu khí quyển và làm tăng nhiệt độ của hành tinh.

Các loại khí nhà kính chính gây biến đổi khí hậu là carbon dioxide (CO2) và methane (CH4), được tạo ra từ việc sử dụng xăng để lái ô-tô hoặc than để sưởi ấm một tòa nhà. Việc phát quang đất và rừng cũng có thể sản sinh ra khí CO2. Trong khi đó, các bãi rác là nguồn “siêu phát thải” khí methane – thời gian tồn tại trong khí quyển ngắn hơn nhưng có khả năng giữ nhiệt tỏa ra từ Mặt Trời cao hơn nhiều lần so với CO2. Một số nguồn phát thải khí nhà kính khác bao gồm năng lượng, công nghiệp, giao thông, các tòa nhà, nông nghiệp và sử dụng đất.

Nồng độ khí nhà kính hiện ở mức cao nhất trong 2 triệu năm

Trong những năm qua, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển tiếp tục tăng cao, khiến Trái Đất hiện nay ấm hơn khoảng 1.1°C so với thời kỳ cuối thế kỷ 19. Thập kỷ 2011-2020 chứng kiến nền nhiệt Trái Đất đạt mức cao kỷ lục trong lịch sử.

Nhiều người cho rằng biến đổi khí hậu chủ yếu có nghĩa là nhiệt độ ấm hơn. Nhưng sự gia tăng nhiệt độ chỉ là phần đầu của câu chuyện. Bởi vì Trái Đất là một hệ thống với nhiều thành phần, yếu tố liên kết chặt chẽ với nhau, cho nên những thay đổi ở một khu vực có thể kéo theo sự biến đổi ở tất cả những khu vực khác.

Những hậu quả mà biến đổi khí hậu gây ra cho hành tinh đang ngày càng trở nên rõ rệt, trong số đó nổi bật là tình trạng hạn hán dữ dội, khan hiếm nước, cháy rừng nghiêm trọng, nước biển dâng, lũ lụt, băng tan ở vùng cực, các cơn bão thảm khốc và suy giảm đa dạng sinh học…

Con người bị tác động bởi biến đổi khí hậu theo nhiều cách khác nhau

Biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng canh tác, nhà ở, sự an toàn và công việc của chúng ta. Nhiều người vốn đã dễ bị tổn thương hơn trước các tác động của khí hậu, chẳng hạn như những người sống ở các đảo quốc nhỏ. Tình trạng nước biển dâng và xâm nhập mặn đã nghiêm trọng đến mức các cộng đồng dân cư phải di dời khỏi nơi cư trú của họ, trong khi hạn hán kéo dài cũng đang đẩy người dân phải đối mặt với nguy cơ nạn đói. Trong tương lai, số lượng “người tị nạn khí hậu” được dự báo sẽ tiếp tục gia tăng.

Mức tăng nhiệt độ càng cao, cái giá phải trả càng lớn

Trong một loạt các báo cáo của Liên hợp quốc, hàng nghìn nhà khoa học và chuyên gia chính phủ đều nhất trí cho rằng, việc hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu không quá 1,5°C sẽ giúp chúng ta tránh được những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và duy trì một khí hậu mà trong đó con người có thể sống được. Tuy nhiên, với tiến trình của các kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu quốc gia như hiện nay, nhiệt độ trung bình Trái Đất được dự báo sẽ tăng thêm 3,2 độ C vào cuối thế kỷ này so với thời kỳ tiền công nghiệp.

Nguồn khí thải gây biến đổi khí hậu đến từ khắp mọi nơi trên thế giới và ảnh hưởng đến tất cả mọi người, nhưng một số quốc gia phát thải nhiều hơn so với những nước khác. Theo đó, 100 quốc gia phát thải ít nhất chỉ chiếm 3% tổng lượng khí thải, trong khi 10 quốc gia phát thải nhiều nhất chiếm 68%. Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu cần sự chung tay của tất cả mọi người, nhưng những người và quốc gia phát thải nhiều hơn sẽ phải có trách nhiệm lớn hơn và phải hành động tiên phong.

Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu

Nhiên liệu hóa thạch gồm than đá, dầu mỏ và khí đốt được biết đến là yếu tố đóng góp nhiều nhất vào tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay, chiếm hơn 75% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu và gần 90% tổng lượng phát thải carbon dioxide (CO2).

Sản xuất điện

Quá trình sản xuất điện và nhiệt từ việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch tạo ra một lượng lớn khí thải trên toàn cầu. Hiện nay, phần lớn điện vẫn được tạo ra bằng cách đốt than, dầu hoặc khí đốt, và đây là nguồn phát thải của 2 trong số những loại khí nhà kính mạnh nhất, đó là CO2 và N2O. Trong khi đó, chỉ 1/4 lượng điện trên toàn cầu được sản xuất từ năng lượng gió, năng lượng mặt trời và các nguồn năng lượng tái tạo khác. Trái ngược với nhiên liệu hóa thạch, năng lượng tái tạo thải ra rất ít, thậm chí không thải ra khí nhà kính hay các chất gây ô nhiễm không khí.

Khí thải từ các nhà máy điện là một trong những nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu. (Ảnh: Phys)

Khí thải từ các nhà máy điện là một trong những nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu. (Ảnh: Phys)

Sản xuất hàng hóa

Khí thải của các ngành sản xuất và công nghiệp phần lớn đến từ việc đốt cháy nhiên liệu hoá thạch để tạo ra năng lượng phục vụ sản xuất các loại hàng hóa như xi măng, sắt, thép, điện tử, nhựa, quần áo và các mặt hàng khác. Ngành khai khoáng, xây dựng và các quy trình công nghiệp khác cũng tạo ra khí thải. Các loại máy móc dùng trong quá trình sản xuất thường hoạt động nhờ than, dầu hoặc khí đốt; trong khi đó, một số vật liệu như nhựa được làm từ hoá chất có nguồn gốc nhiên liệu hóa thạch. Ngành công nghiệp chế tạo là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất trên thế giới hiện nay.

Ở Mỹ, ngành công nghiệp chế tạo chiếm gần 1/4 lượng khí thải carbon trực tiếp ra môi trường. (Ảnh: WEF)

Ở Mỹ, ngành công nghiệp chế tạo chiếm gần 1/4 lượng khí thải carbon trực tiếp ra môi trường. (Ảnh: WEF)

Chặt phá rừng

Việc phá rừng để xây dựng nông trại hoặc đồng cỏ hay vì lý do nào khác cũng đều tạo ra khí thải, do cây xanh khi bị chặt sẽ thải ra lượng carbon tích trữ trong đó. Hằng năm, có khoảng 12 triệu ha rừng bị phá hủy. Vì cây xanh hấp thụ CO2, nên chặt chúng đi cũng có nghĩa là hạn chế khả năng của tự nhiên trong việc giảm khí thải trong bầu khí quyền. Phá rừng, cùng với hoạt động nông nghiệp và các hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất khác, là nguyên nhân gây ra khoảng 1/4 lượng phát thải khí nhà kính trên toàn cầu.

Một khu vực rừng Amazon bị tàn phá ở bang Amazonas, Brazil. (Ảnh: Reuters)

Một khu vực rừng Amazon bị tàn phá ở bang Amazonas, Brazil. (Ảnh: Reuters)

Sử dụng phương tiện giao thông

Hầu hết ô-tô, xe tải, tàu thuyền và máy bay đều hoạt động bằng nhiên liệu hoá thạch. Theo đó, giao thông vận tải là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất, đặc biệt là CO2. Phương tiện đường bộ chiếm tỷ trọng lớn nhất do phải đốt cháy các sản phẩm gốc dầu mỏ (như xăng) trong động cơ đốt trong. Trong khi đó, lượng khí thải từ tàu thuyền và máy bay vẫn tiếp tục tăng. Giao thông vận tải chiếm gần 1/4 lượng khí thải CO2 toàn cầu liên quan đến năng lượng. Xu hướng này cho thấy sự gia tăng đáng kể trong việc sử dụng năng lượng cho giao thông vận tải trong những năm tới.

Giao thông vận tải là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất, đặc biệt là CO2. (Ảnh: Reuters)

Giao thông vận tải là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất, đặc biệt là CO2. (Ảnh: Reuters)

Sản xuất lương thực

Quá trình sản xuất lương thực thải ra khí CO2, methane (CH4) và các loại khí nhà kính khác theo nhiều cách, chẳng hạn như phá rừng và khai khẩn đất phục vụ trồng trọt và chăn thả, làm thức ăn cho gia súc, sản xuất và sử dụng phân bón để trồng trọt cũng như sử dụng năng lượng (thường là nhiên liệu hóa thạch) để chạy các thiết bị trong nông trại hay tàu cá. Tất cả những hoạt động này khiến ngành sản xuất lương thực trở thành một nguồn đáng kể gây ra biến đổi khí hậu. Ngoài ra, việc phát thải khí nhà kính còn đến từ hoạt động đóng gói và phân phối lương thực.

Hoạt động phá rừng và khai khẩn đất phục vụ trồng trọt và chăn thả thải ra một lượng lớn khí nhà kính như CO2, methane. (Ảnh: Getty)

Hoạt động phá rừng và khai khẩn đất phục vụ trồng trọt và chăn thả thải ra một lượng lớn khí nhà kính như CO2, methane. (Ảnh: Getty)

Cấp điện cho các tòa nhà

Các tòa nhà dân cư và thương mại chiếm hơn một nửa tổng mức tiêu thụ điện trên toàn cầu. Do tình trạng không ngừng sử dụng than, dầu và khí tự nhiên để sưởi và làm mát, các tòa nhà thải ra một lượng khí nhà kính đáng kể. Nhu cầu sưởi ấm và làm mát gia tăng, số người sở hữu máy điều hoà không khí gia tăng, đồng thời mức tiêu thụ điện cho mục đích chiếu sáng và sử dụng thiết bị gia dụng/thiết bị kết nối cũng gia tăng. Tất cả cùng góp phần làm tăng lượng phát thải CO2 liên quan đến năng lượng từ các tòa nhà trong những năm gần đây.

Tình trạng không ngừng sử dụng than, dầu và khí tự nhiên để sưởi và làm mát các tòa nhà thải ra một lượng khí nhà kính đáng kể. (Ảnh: Reuters)

Tình trạng không ngừng sử dụng than, dầu và khí tự nhiên để sưởi và làm mát các tòa nhà thải ra một lượng khí nhà kính đáng kể. (Ảnh: Reuters)

Tiêu thụ quá mức

Ngôi nhà của bạn, cách bạn sử dụng điện, cách bạn di chuyển, những thứ bạn ăn và những thứ bạn vứt bỏ, tất cả đều góp phần vào phát thải khí nhà kính. Việc tiêu thụ các hàng hóa như quần áo, đồ điện tử và đồ nhựa cũng vậy. Một lượng lớn khí thải nhà kính trên toàn cầu có liên quan đến các hộ gia đình. Lối sống của chúng ta có tác động rất lớn đến hành tinh này. Những người giàu nhất chịu trách nhiệm lớn nhất: 1% dân số giàu nhất trên thế giới phát thải lượng khí nhà kính nhiều hơn so với mức của 50% dân số nghèo nhất.

Tác động của biến đổi khí hậu

Các loại khí nhà kính bao phủ Trái Đất và giữ lại nhiệt của Mặt Trời trong khí quyển, gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Thế giới hiện đang ấm lên với tốc độ nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào được ghi nhận trong quá khứ. Theo thời gian, sự gia tăng nhiệt độ này làm thay đổi các hình thái thời tiết và phá vỡ sự cân bằng vốn có của tự nhiên. Tình trạng này có thể mang đến nhiều nguy cơ cho con người cũng như các sinh vật sống trên Trái Đất.

Nhiệt độ nóng lên

Khi nồng độ khí nhà kính tăng lên, nhiệt độ trên bề mặt toàn cầu cũng tăng theo. Thập kỷ 2011-2020 vừa qua được ghi nhận là nóng nhất trong lịch sử. Kể từ những năm 1980, nhiệt độ của thập kỷ sau luôn cao hơn so với thập kỷ trước đó. Gần như toàn bộ các khu vực trên đất liền đều ghi nhận sự gia tăng số ngày nắng nóng và các đợt sóng nhiệt. Nhiệt độ tăng kéo theo sự gia tăng các bệnh do nhiệt độ cao gây ra và khiến việc thực hiện các công việc ngoài trời trở nên khó khăn hơn. Cùng với đó, cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn và tốc độ lan nhanh hơn rất nhiều khi khí hậu nóng lên. Nhiệt độ ở hai cực của Trái Đất đã tăng ít nhất gấp hai lần so với mức tăng nhiệt độ trung bình của thế giới.

Khí hậu nóng lên khiến cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn và tốc độ lan nhanh hơn. (Ảnh: Reuters)

Khí hậu nóng lên khiến cháy rừng xảy ra thường xuyên hơn và tốc độ lan nhanh hơn. (Ảnh: Reuters)

Thêm nhiều cơn bão dữ dội

Biến đổi khí hậu khiến những cơn bão lớn trở nên khốc liệt hơn và xuất hiện thường xuyên hơn ở nhiều khu vực. Do nhiệt độ tăng, nước bốc hơi càng nhiều khiến tình trạng mưa cực lớn và ngập lụt trở nên trầm trọng hơn, kéo theo sự xuất hiện thêm nhiều cơn bão có sức tàn phá hủy diệt. Tình trạng nước biển nóng lên cũng ảnh hưởng đến tần suất và quy mô của các cơn bão nhiệt đới. Các cơn lốc xoáy, cuồng phong và bão đều lớn mạnh thêm nhờ dòng nước nóng trên bề mặt đại dương. Những cơn bão như vậy có thể phá hủy nhà cửa và các khu dân cư, gây ra thiệt hại về người cũng như mất mát lớn về kinh tế.

Biến đổi khí hậu khiến những cơn bão lớn trở nên khốc liệt hơn. (Ảnh: NASA)

Biến đổi khí hậu khiến những cơn bão lớn trở nên khốc liệt hơn. (Ảnh: NASA)

Hạn hán kéo dài

Biến đổi khí hậu tác động đến lượng nước trong tự nhiên, khiến ngày càng nhiều khu vực phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước. Tình trạng này trở nên trầm trọng hơn do tác động của sự nóng lên toàn cầu, kéo theo đó là gia tăng nguy cơ hạn hán nông nghiệp ảnh hưởng đến mùa vụ và hạn hán sinh thái khiến các hệ sinh thái dễ bị tổn thương hơn. Các đợt hạn hán còn gây ra những trận bão cát và bụi khắc nghiệt có thể di chuyển hàng tỷ tấn cát qua các châu lục. Các sa mạc ngày càng mở rộng, làm diện tích đất trồng trọt bị thu hẹp lại. Nhiều người đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt hằng ngày.

Bên bờ hồ Le Broc, Pháp, ngày 5/8/2022. (Ảnh: Reuters)

Bên bờ hồ Le Broc, Pháp, ngày 5/8/2022. (Ảnh: Reuters)

Nước biển nóng lên và ngày càng dâng cao

Đại đương hấp thụ phần lớn lượng nhiệt phát sinh từ tình trạng nóng lên toàn cầu. Trong vòng hai thập kỷ qua, tốc độ nước biển nóng lên đã tăng mạnh ở mọi độ sâu của đại dương. Khi đại dương nóng lên, thể tích đại dương cũng theo đó mà tăng lên do sự giãn nở của nước. Các tảng băng tan cũng làm mực nước biển dâng, đe dọa các cộng đồng ven biển và hải đảo. Ngoài ra, đại dương hấp thụ CO2, giữ cho chúng không bay vào khí quyển. Tuy nhiên, việc tích trữ quá nhiều CO2 lại làm tăng tính axit của đại dương và gây ảnh hưởng đến các rạn san hô và sinh vật biển.

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, các sông băng tan chảy khiến mực nước biển dâng, đe dọa các cộng đồng ven biển và hải đảo. (Ảnh: Reuters)

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, các sông băng tan chảy khiến mực nước biển dâng, đe dọa các cộng đồng ven biển và hải đảo. (Ảnh: Reuters)

Các loài sinh vật biến mất

Biến đổi khí hậu đe dọa đến sự tồn tại của các loài sinh vật cả trên cạn lẫn dưới biển. Nguy cơ ngày càng tăng khi nhiệt độ càng lên cao. Do biến đổi khí hậu, các sinh vật trên thế giới đang biến mất dần với tốc độ nhanh hơn gấp 1.000 lần so với mọi thời điểm từng được ghi nhận trong lịch sử loài người. Một triệu loài sinh vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng trong vòng vài thập kỷ tới. Cháy rừng, thời tiết khắc nghiệt, sâu bệnh xâm hại và dịch bệnh là những mối đe dọa liên quan đến biến đổi khí hậu. Một số giống loài có thể di cư và tiếp tục tồn tại, tuy nhiên không phải loài nào cũng làm được như vậy.

Do biến đổi khí hậu, các sinh vật trên thế giới đang biến mất dần với tốc độ nhanh hơn gấp 1.000 lần so với trước đây. (Ảnh: Getty)

Do biến đổi khí hậu, các sinh vật trên thế giới đang biến mất dần với tốc độ nhanh hơn gấp 1.000 lần so với trước đây. (Ảnh: Getty)

Thiếu thốn lương thực

Sự thay đổi về khí hậu và sự gia tăng của các hiện tượng thời tiết cực đoan là hai trong số những lý do làm gia tăng nạn đói cũng như tình trạng thiếu thốn dinh dưỡng. Thủy sản, cây trồng và vật nuôi có thể bị hủy hoại hoặc năng suất sẽ kém đi. Khi mà nồng độ axit trong nước biển tăng cao, nguồn hải sản đang nuôi sống hàng tỷ người bị đe dọa. Sự thay đổi của lớp băng tuyết ở nhiều vùng cực Bắc đã làm gián đoạn nguồn cung lương thực đến từ hoạt động chăn nuôi, săn bắn và đánh cá. Tình trạng nóng lên có thể làm giảm nguồn nước và mất đi những đồng cỏ để chăn thả, do đó làm giảm năng suất mùa vụ và ảnh hưởng đến gia súc.

Sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan khiến năng suất cây trồng sụt giảm, dẫn đến tình trạng thiếu thốn dinh dưỡng ở nhiều nơi trên thế giới. (Ảnh: Reuters)

Sự gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan khiến năng suất cây trồng sụt giảm, dẫn đến tình trạng thiếu thốn dinh dưỡng ở nhiều nơi trên thế giới. (Ảnh: Reuters)

Thêm nhiều mối đe dọa đến sức khỏe

Biến đổi khí hậu là mối đe dọa về sức khỏe lớn nhất mà con người phải đối mặt. Tác động của biến đổi khí hậu đã và đang gây hại cho sức khỏe con người, từ những vấn đề như ô nhiễm không khí, bệnh dịch, hiện tượng thời tiết cực đoan, việc bắt buộc phải di dời, áp lực lên sức khỏe tâm thần và sự gia tăng của nạn đói, cho đến tình trạng thiếu dinh dưỡng ở những khu vực mà con người không thể trồng trọt hay tìm nguồn lương thực cần thiết. Mỗi năm, các yếu tố môi trường đã lấy đi sinh mạng của khoảng 13 triệu người. Những thay đổi về thời tiết đang làm gia tăng dịch bệnh và các hiện tượng thời tiết cực đoan, dẫn đến số người thiệt mạng ngày càng tăng và khiến cho hệ thống y tế không thể theo kịp.

Các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng, gây hại cho sức khỏe con người. (Ảnh: Reuters)

Các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng, gây hại cho sức khỏe con người. (Ảnh: Reuters)

Nghèo đói và di dân

Biến đổi khí hậu làm gia tăng các yếu tố khiến con người rơi vào đói nghèo. Lũ lụt cuốn trôi các khu ổ chuột ở đô thị, phá hoại nhà cửa và kế sinh nhai. Sức nóng có thể khiến các công việc ngoài trời trở nên khó khăn hơn. Tình trạng khan hiếm nước có thể ảnh hưởng mùa vụ. Theo thống kê, trong thập kỷ vừa qua (2010-2019), các hiện tượng thời tiết đã buộc khoảng 23,1 triệu người phải di dời, khiến họ càng dễ lâm vào nghèo đói. Hầu hết người tị nạn đến từ những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu cũng như ít có khả năng sẵn sàng thích ứng.

Biến đổi khí hậu làm gia tăng các yếu tố khiến con người rơi vào đói nghèo. (Ảnh: Reuters)

Biến đổi khí hậu làm gia tăng các yếu tố khiến con người rơi vào đói nghèo. (Ảnh: Reuters)

Giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu

Thách thức lớn nhưng cũng có nhiều giải pháp

Trước những thách thức của biến đổi khí hậu, nhiều giải pháp ứng phó đã và đang được tiến hành, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp cải thiện cuộc sống của chúng ta và bảo vệ môi trường tự nhiên. Chúng ta cũng có các khuôn khổ và thỏa thuận toàn cầu để thúc đẩy và giám sát tiến độ triển khai, chẳng hạn như các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris. Trong đó, ba trụ cột hành động chính gồm: cắt giảm phát thải, thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, và tài trợ cho các điều chỉnh cần thiết.

Việc chuyển đổi hệ thống năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo (năng lượng gió, năng lương mặt trời…) sẽ làm giảm lượng khí thải gây ra biến đổi khí hậu. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây giờ. Ngày càng có nhiều quốc gia cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (net-zero) vào năm 2050, tuy nhiên khoảng một nửa lượng khí thải sẽ phải được cắt giảm vào năm 2030 (thông qua nhiều biện pháp, trong đó có loại bỏ CO2 khỏi khí quyển...) để giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu không quá 1,5°C. Cùng với đó, sản lượng nhiên liệu hóa thạch phải giảm khoảng 6% mỗi năm trong giai đoạn 2020-2030.

Thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu giúp bảo vệ con người, nhà cửa, doanh nghiệp, sinh kế, cơ sở hạ tầng và các hệ sinh thái tự nhiên. Những tác động này bao gồm ở hiện tại và cả trong tương lai. Thích ứng sẽ là yêu cầu tất yếu đối với mọi khu vực trên thế giới, nhưng cần được ưu tiên cho những người dễ bị tổn thương nhất với nguồn lực đối phó các hiểm họa khí hậu hạn chế nhất. Điều này có thể mang lại “tỷ suất lợi nhuận cao”, chẳng hạn như hệ thống cảnh báo sớm thảm họa có thể cứu người và tài sản, đồng thời mang lại lợi ích cao gấp 10 lần so với chi phí ban đầu.

Hành động bây giờ hoặc trả giá đắt trong tương lai

Hành động vì khí hậu đòi hỏi các khoản đầu tư tài chính đáng kể từ các chính phủ và doanh nghiệp. Nhưng nếu không hành động, cái giá phải trả có thể sẽ còn đắt hơn rất nhiều. Một trong số những bước đi quan trọng là các nước công nghiệp phát triển cần thực hiện cam kết cung cấp 100 tỷ USD mỗi năm cho các nước đang phát triển để họ có thể thích ứng với biến đổi khí hậu và hướng tới thúc đẩy các nền kinh tế xanh hơn.

Ngày xuất bản: 25/10/2022
Tổ chức thực hiện: TRƯỜNG SƠN
Thực hiện: VĂN TOẢN
Trình bày: VĂN TOẢN
Nguồn ảnh, tư liệu: Reuters, UN, WEF, Phys, Getty Images